TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THA SƠN - TỈNH PHÚ THỌ
BẢN ÁN 07/2022/HNGĐ-ST NGÀY 17/03/2022 VỀ XÁC ĐỊNH CHA CHO CON
Bản án 07/2022/HNGĐ-ST ngày 17/03/2022 về xác định cha cho con
Ngày 17 tháng 3 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện ThA Sơn, tỉnh Phú Thọ xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 184/2021/TLST- HNGĐ ngày 07 tháng 10 năm 2021 về việc:“TrA chấp xác định cha cho con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 04/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 13 tháng 01 năm 2022 và Thông báo mở lại phiên toà số: 05/2022/TB –TA ngày 17/02/2022 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị T – Sinh năm 1973 (Có mặt) Địa chỉ: Phố Phú G, thị trấn ThA S, huyện ThA Sơn, tỉnh Phú Thọ
Bị đơn: A Lê Văn D – Sinh năm 1963 (Vắng mặt không lý do) Địa chỉ: Phố Phú G, thị trấn ThA S, huyện ThA Sơn, tỉnh Phú Thọ
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
1. Cháu Lê Ngọc Kiều A – Sinh ngày 26/02/2014 (Có mặt)\
2. A Nguyễn Xuân N - Sinh năm 1972 (Có mặt) Địa chỉ: Phố V, thị trấn ThA S, huyện ThA Sơn, tỉnh Phú Thọ
Người đại diện cho cháu Lê Ngọc Kiều A: Chị Nguyễn Thị T – Sinh năm 1973 (Mẹ đẻ cháu A) (Có mặt) Địa chỉ: Phố Phú Gia, thị trấn ThA S, huyện ThA S, tỉnh Phú Thọ
NỘI DUNG VỤ ÁN
Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị T trình bày:
Chị Nguyễn Thị T và A Lê Văn D kết hôn năm 1994, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Sơn Hùng, huyện ThA Sơn (Nay là thị trấn ThA Sơn), huyện ThA Sơn, tỉnh Phú Thọ. Quá trình chung sống vợ chồng không hạnh phúc thường xuyên nảy sinh mâu thuẫn năm 2018 đã được Tòa án nhân dân huyện ThA Sơn giải quyết cho chị T và A Dân được ly hôn. Trước đó vào năm 2013 chị T có quan hệ tình cảm với A Nguyễn Xuân N và sinh cháu Lê Ngọc Kiều A ngày 26/02/2014, tuy nhiên chị T không biết đó là con A Nghị. Tại Quyết định công nhận sự thuận tình ly hôn và sự thoả thuận của đương sự số: 91/2018/QĐST-HNGĐ ngày 13/7/2018 của Toà án nhân dân huyện ThA Sơn. Về phần con chung chị T và A Dân đều thống nhất xác nhận vợ chồng có 02 con chung là cháu Lê Thị Hồng N – Sinh năm 1997 và cháu Lê Ngọc Kiều A – Sinh năm 2014. Khi ly hôn hai bên tự nguyện thoả thuận giao cho chị T được tiếp tục chăm sóc và nuôi dưỡng cả hai con chung. Tuy nhiên, nay chị T xác định cháu A không phải là con của A Dân, cháu Lê Ngọc Kiều A là con chung của chị T và A Nguyễn Xuân N, sau khi ly hôn với A Dân. Năm 2019 chị Nguyễn Thị T đã kết hôn với A Nguyễn Xuân N, chị T và A Nghị đã đi xét nghiệm AND kết quả xác định A Nguyễn Xuân N và cháu Lê Ngọc Kiều A có cùng chung huyết thống là cha - con. Vì vậy chị T làm đơn đề nghị Toà án nhân dân cấp cao tại Hà Nội huỷ Quyết định công nhận sự thuận tình ly hôn và sự thoả thuận của đương sự số: 91/2018/QĐST-HNGĐ ngày 13/7/2018 của Toà án nhân dân huyện ThA Sơn về phần con chung. Sau đó Toà án nhân dân cấp cao tại Hà Nội đã có Quyết định tái thẩm số 15/2021/HNGĐ-TT ngày 23/6/2021 quyết định huỷ phần con chung tại Quyết định công nhận sự thuận tình ly hôn và sự thoả thuận của đương sự số: 91/2018/QĐST-HNGĐ ngày 13/7/2018 của Toà án nhân dân huyện ThA Sơn và giao cho Toà án nhân dân huyện ThA Sơn xét xử sơ thẩm lại phần con chung theo quy định của pháp luật, chị T làm đơn đề nghị Toà án nhân dân huyện ThA Sơn tuyên bố cháu Lê Ngọc Kiều A không phải là con chung của chị Nguyễn Thị T và A Lê Văn D đồng thời xác định lại cha cháu Lê Ngọc Kiều A là con A Nguyễn Xuân N.
Bị đơn: A Lê Văn D quá trình Toà án tiến hành thụ lý giải quyết vụ án để xác định cha là A Dân đối với cháu Lê Ngọc Kiều A. Tòa án triệu tập nhiều lần nhưng A Dân không đến Toà án làm việc, Toà án đã tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ tại khu dân cư, UBND Thị trấn ThA Sơn, lấy lời khai của những người thân trong gia đình A Dân. Kết quả thu thập chứng cứ xác định được: Hiện nay A Dân có đăng ký hộ khẩu thường trú tại Phố Phú G, thị trấn ThA S, huyện ThA Sơn. Tuy nhiên A Dân đi làm ăn xa, thường xuyên vắng mặt tại địa phương. Nhà ở của A Dân hiện nay con gái lớn là cháu Lê Thị Hồng N đang sinh sống. Quá trình giải quyết Toà án có gửi giấy báo, các văn bản tố tụng cho cháu Lê Thị Hồng N là con gái A Dân để thông tin lại cho A Dân được biết về Tòa án để giải quyết theo yêu cầu của chị Nguyễn Thị T về việc xác định cha cho con. Tuy nhiên A Dân vẫn cố tình không đến Toà án làm việc.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện ThA Sơn phát biểu quan điểm: Việc nhận đơn, phân công Thẩm phán giải quyết vụ án được thực hiện theo đúng Bộ luật tố tụng Dân sự.
Việc tuân theo pháp luật: Thẩm phán tiến hành thụ lý vụ án, triệu tập đương sự đến Tòa án giải quyết, điều tra, xác minh, thu thập chứng cứ và niêm yết các văn bản tố tụng theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng Dân sự.
Các đương sự: Nguyên đơn đã chấp hành tham gia tố tụng, thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình quy định tại Điều 70, Điều 71 Bộ luật tố tụng Dân sự Bị đơn không chấp hành, thực hiện về các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định tại Điều 70, Điều 72 – Bộ luật tố tụng Dân sự.
Người có lợi nghĩa vụ liên quan đã chấp hành quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định tại Điều 70, Điều 73 – Bộ luật tố tụng Dân sự Căn cứ vào Điều 81, Điều 88, Điều 89, Điều 90 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Khoản 1 Điều 147 –Bộ luật Dân sự năm 2015, điểm b Khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Chấp nhận đơn khởi kiện của chị Nguyễn Thị T.
Tuyên bố: Cháu Lê Ngọc Kiều A, sinh ngày 26/02/2014 không phải là con chung của chị Nguyễn Thị T và A Lê Văn D. Xác định A Nguyễn Xuân N, sinh ngày 14/6/1972 là cha đẻ của cháu Lê Ngọc Kiều A, sinh ngày 26/02/2014.
Về án phí:Áp dụng Khoản 4 Điều 47 – BLTTDS năm 2015 và điểm b, Khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Chị Nguyễn Thị T không phải chịu án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về thủ tục tố tụng: A Lê Văn D là bị đơn trong vụ án hôn nhân gia đình xác định cha cho con, sau khi Tòa án nhận được đơn khởi kiện của chị Nguyễn Thị T về việc xác định cha cho con. Căn cứ vào Khoản 10 Điều 29, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a Khoản 1 Điều 39, điểm c Khoản 2 Điều 203 Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2015. Như vậy cần xác định quan hệ trA chấp trong vụ án là “TrA chấp xác định cha cho con”, vụ án dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Sau khi thụ lý vụ án Tòa án nhân dân huyện ThA Sơn đã triệu tập chị T, A Dân đến Tòa án để giải quyết, chị T đã chấp hành, A Dân không chấp hành.Tòa án đã tiến hành lập biên bản về việc A Dân vắng mặt không có lý do tại các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải. Như vậy, vụ án không thể tiến hành hòa giải theo quy định của pháp luật, thuộc trường hợp quy định tại Khoản 1 Điều 207 Bộ luật tố tụng Dân sự. Sau đó Tòa án đã tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ, giao các văn bản cho cháu Lê Thị Hồng N là con đẻ A Dân và tiến hành niêm yết các văn bản tố tụng nơi A Dân có hộ khẩu thường trú tại thị trấn ThA Sơn, huyện ThA Sơn, tỉnh Phú Thọ. Nhưng A Dân vẫn cố tình vắng mặt tại Tòa án đã thể hiện tại các biên bản giao nhận, biên bản niêm yết có lưu trong hồ sơ vụ án. Tại phiên tòa hôm nay A Dân vắng mặt không lý do. Căn cứ điểm b Khoản 2 Điều 227, Khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự. Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định của pháp luật.
[2] Xét yêu cầu của chị Nguyễn Thị T:
Chị Nguyễn Thị T và A Lê Văn D kết hôn năm 1994, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Sơn Hùng, huyện ThA Sơn (Nay là thị trấn ThA Sơn), huyện ThA Sơn, tỉnh Phú Thọ. Quá trình chung sống vợ chồng không hạnh phúc năm 2018 đã được Tòa án nhân dân huyện ThA Sơn giải quyết cho chị T và A Dân được ly hôn. Trước đó vào năm 2013 chị T có quan hệ tình cảm với A Nguyễn Xuân N và sinh cháu Lê Ngọc Kiều A ngày 26/02/2014. Tại Quyết định công nhận sự thuận tình ly hôn và sự thoả thuận của đương sự số: 91/2018/QĐST-HNGĐ ngày 13/7/2018 của Toà án nhân dân huyện ThA Sơn. Trong quá trình giải quyết vụ án chị T và A Dân đều đã thống nhất xác nhận cháu Lê Ngọc Kiều A – Sinh năm 2014 là con chung của chị T và A Dân. Khi ly hôn giao cho chị T được tiếp tục chăm sóc và nuôi dưỡng cháu A. Căn cứ vào giấy khai sinh của cháu Lê Ngọc Kiều A số 60 quyển số 01 năm 2014 ngày 21/4/2014 thể hiện thời điểm khai sinh, chị T và A Dân đang là vợ chồng, việc đăng ký khai sinh tại UBND thị trấn ThA Sơn là đúng trình tự thủ tục theo quy định của pháp luật, Hiện nay cháu A chưa đủ 18 tuổi chưa đủ năng lực hành vi dân sự vì vậy việc chị T yêu cầu Toà án xác định lại cha cho cháu Lê Ngọc Kiều A là hợp pháp theo quy định của Bộ luật dân sự.
Tuy nhiên chị T xác định cháu Lê Ngọc Kiều A không phải là con của A Dân mà cháu A là con của A Nguyễn Xuân N ngày 31/01/2019 chị T và A Nghị đã đưa cháu A đi xét nghiệm AND tại Viện khoa học hình sự, Trung T giám định sinh học pháp y Bộ công an và ngày 11/3/2022 xét nghiệm AND tại Viện pháp y Quân đội Khoa xét nghiệm sinh học tại Cục Quân y số HT80.22/PY-XNSH ngày 11/3/2022 của Viện pháp y Quân đội có kết luận A Nguyễn Xuân N và cháu Lê Ngọc Kiều A có quan hệ huyết thống cha – con. Trong quá trình giải quyết vụ án Toà án đã tiến hành lấy ý kiến của cháu Lê Ngọc Kiều A theo quy định của pháp luật. Cháu A đã thể hiện nguyện vọng được xác định lại cha đẻ. Xét điều kiện thực tế hiện nay chị T và A Nghị đã kết hôn năm 2019, hiện nay cháu A đang sống cùng A Nghị và chị T. Như vậy từ những phân tích ở trên HĐXX thấy rằng, việc xác định cha cho cháu Lê Ngọc Kiều A là hoàn toàn hợp pháp và phù hợp với điều kiện thực tế để cháu được quyền khai sinh, được nhận cha đẻ của mình theo quy định của pháp luật, đảm bảo cho cháu A có điều kiện sinh hoạt và phát triển bình thường nhất. Do đó yêu cầu của chị T là có căn cứ cần được chấp nhận.
Về phía A Lê Văn D trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã nhiều lần triệu tập đến giải quyết, nhưng A Dân đều vắng mặt không lý do. Mặc dù A Dân đã biết chị T có đơn xin xác định cha đẻ cho cháu A với A Nghị, A đã được cháu Lê Thị Hồng N (con gái A và chị T) thông báo, động viên A đến Tòa án để giải quyết, nhưng A không đến và không cho biết địa chỉ A làm gì, ở đâu mà chỉ đưa ra lý do không có điều kiện về, nên A đề nghị giải quyết theo pháp luật. Tuy nhiên đây chỉ là lời trình bày của cháu Ngọc, A Dân không thể hiện ý trí bằng văn bản, không thể hiện quan điểm rõ ràng, đây là lý do A Dân đưa ra về việc không chấp hành pháp luật. Như vậy A Dân đã cố tình che dấu địa chỉ và từ bỏ quyền và nghĩa vụ của mình. Tại phiên tòa hôm nay A Dân vẫn cố tình vắng mặt không lý do. Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định của pháp luật.
Về phía A Nguyễn Xuân N cũng thừa nhận năm 2013 A và chị Nguyễn Thị T có quan hệ tình cảm khi đó A đã ly hôn vợ. Năm 2018 chị T và A Dân đã ly hôn, năm 2019 A và chị T đã kết hôn theo đúng quy định của pháp luật và trực tiếp nuôi dưỡng cháu Lê Ngọc Kiều A từ đó đến nay. Sau khi A được biết cháu A là con chung của A và chị T. Ngày 11/3/2022 A Nghị cùng chị T đưa cháu Lê Ngọc Kiều A đi xét nghiệm AND tại Viện pháp y Quân đội Khoa xét nghiệm sinh học tại Cục Quân y số HT80.22/PY-XNSH của Viện pháp y Quân đội có kết luận A Nguyễn Xuân N và cháu Lê Ngọc Kiều A có quan hệ huyết thống Cha – Con. Nay A đề nghị Tòa án giải quyết xác định cháu Lê Ngọc Kiều A là con chung của A và chị Nguyễn Thị T.
[3] Quan điểm đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện ThA Sơn là phù hợp nên được chấp nhận
[4] Về án phí: Chị Nguyễn Thị T không phải chịu án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm.
[5] Quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 81, Điều 88, Điều 89, Điều 90, Điều 91 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Khoản 4 Điều 147, Điều 271, Khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2015.
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị T về việc xin xác định cha cho con chưa thành niên.
Xử: Tuyên bố cháu Lê Ngọc Kiều A, sinh ngày 26/02/2014 không phải là con chung của chị Nguyễn Thị T và A Lê Văn D. Xác định A Nguyễn Xuân N, sinh ngày 14/6/1972 là cha đẻ của cháu Lê Ngọc Kiều A, sinh ngày 26/02/2014. Chấm dứt quyền và nghĩa vụ cha con giữa A Lê Văn D và cháu Lê Ngọc Kiều A – sinh ngày 26/02/2014. Giao cháu Lê Ngọc Kiều A, sinh ngày 26/02/2014 cho chị Nguyễn Thị T và A Nguyễn Xuân N trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng cháu A đến khi thành niên.
Về án phí: Áp dụng Khoản 4 Điều 147 – BLTTDS năm 2015 và điểm b, Khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Miễn toàn bộ tiền án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm cho chị Nguyễn Thị T theo quyết định số 08/2021/QĐ – TA ngày 07/10/2021 của Tòa án nhân dân huyện ThA Sơn, tỉnh Phú Thọ.
Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 - Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 luật thi hành án dân sự.
Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại trụ sở UBND nới các đương sự vắng mặt cư trú để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ xét xử phúc thẩm.
Bản án về xác định cha cho con số 07/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 07/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thanh Sơn - Phú Thọ |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 17/03/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về