TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SƠN DƯƠNG, TỈNH TUYÊN QUANG
BẢN ÁN 88/2021/HNGĐ-ST NGÀY 29/09/2021 VỀ VIỆC TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH GIỮA CHỊ PHẠM THỊ T VÀ ANH NGUYỄN VĂN C
Ngày 29/9/2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Sơn Dương mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 305/2021/TLST-HNGĐ ngày 11/5/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 87/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 30/8/2021; quyết định hoãn phiên tòa số: 60/2021/QĐST-HNGĐ ngày 14/9/2021 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Phạm Thị T, sinh năm: 1982; địa chỉ: tổ dân phố H, thị trấn S, huyện S, tỉnh Tuyên Quang (vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt).
2. Bị đơn: Anh Nguyễn Văn C, sinh năm 1973; địa chỉ: thôn C, xã T, huyện S, tỉnh Tuyên Quang (vắng mặt không có lý do).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, đơn xin xét xử vắng mặt, nguyên đơn chị Phạm Thị T trình bày:
Chị và anh Nguyễn Văn C kết hôn năm 2018, trước khi kết hôn được tự do tìm hiểu, tự nguyện đến với nhau, không bị ai cưỡng ép, lừa dối kết hôn; được hai bên gia đình tổ chức cưới hỏi theo phong tục địa phương và đăng ký kết hôn ngày 15/3/2018 tại UBND xã Thượng Ấm, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Sau khi kết hôn vợ chồng làm ăn sinh sống tại khu vực xã M, huyện Y, tỉnh Tuyên Quang. Thời gian đầu chung sống hạnh phúc nhưng chỉ được vài tháng, anh C hay uống rượu và đánh chị. Sau đó anh chị chuyển về sinh sống tại tổ dân phố H, thị trấn S, huyện S. Tuy nhiên, anh C vẫn chứng nào tật ấy, vẫn thường xuyên uống rượu và đánh chị nhiều lần nhưng chị đều nhẫn nhịn, không báo chính quyền địa phương. Đến ngày 20/4/2021 anh C lại uống rượu, đánh chị. Chị đã báo đại diện tổ dân phố, công an viên tổ dân phố Hồ Tiêu đến làm việc, lập biên bản sự việc. Mẹ đẻ và gia đình anh C đã đến khuyên ngăn nhưng anh C vẫn không thay đổi, thường xuyên đe dọa giết chị và con trai riêng của chị. Chị và anh C đã ly thân nhau từ ngày 20/4/2021 đến nay, không quan tâm chăm sóc gì tới nhau nữa. Nay, chị xác định tình cảm vợ chồng đã hết, mâu thuẫn không thể hòa giải được, không thể tồn tại gia đình hạnh phúc nên chị làm đơn đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Nguyễn Văn C.
Về con chung: Chị xác định chị và anh Nguyễn Văn C có 01 người con chung là cháu Nguyễn Kim O, sinh ngày 13/5/2019, hiện cháu còn nhỏ, đang ở cùng với chị. Khi ly hôn chị đề nghị được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Oanh vì cháu là con gái, cần sự quan tâm chăm sóc từ mẹ, bố cháu đi đâu không rõ địa chỉ không thể chăm sóc chu đáo cho cháu được. Chị không đề nghị anh C phải cấp dưỡng nuôi con chung.
Về tài sản chung, công nợ chung: Chị không đề nghị Toà án giải quyết.
Quá trình thụ lý, giải quyết vụ án, Tòa án đã báo gọi anh Nguyễn Văn C đến Tòa án để giải quyết vụ án nhưng anh C đều không có mặt. Qua xác minh tại địa phương thì hiện nay anh Nguyễn Văn C vẫn đăng ký hộ khẩu thường trú tại thôn C, xã T, huyện S, tỉnh Tuyên Quang; thỉnh thoảng anh C có về nhà mẹ đẻ tại thôn C, xã T, huyện S.
Theo lời khai của bà Phạm Thị Nga (là mẹ đẻ của anh C) thì anh C và chị T có được tự do tìm hiểu, tự nguyện đến với nhau, được gia đình tổ chức cưới hỏi theo phong tục địa phương, có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật. Sau ngày cưới anh chị chung sống ở khu vực xã M, huyện Y, tỉnh Tuyên Quang. Sau đó một thời gian ngắn thì về tổ dân phố H, thị trấn S, huyện S, tỉnh Tuyên Quang chung sống. Quá trình chung sống, anh C và chị T có xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh C hay uống rượu, say rượu dẫn tới vợ chồng thường xích mích nhau. Bà đã khuyên bảo anh C nhiều lần nhưng anh C vẫn không thay đổi. Anh chị đã ly thân nhau từ tháng 5 năm 2021 tới nay không còn chung sống với nhau nữa. Hiện nay, anh C đang đi làm ở tỉnh Quảng Ninh, có liên lạc với gia đình bà nhưng không nói rõ địa chỉ cụ thể. Gia đình bà có nhận được các thông báo, giấy triệu tập của Tòa án và đã thông báo cho anh C biết nhưng anh C nói không về giải quyết được.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đều đảm bảo đúng quy định. Đối với đương sự: Nguyên đơn đã chấp hành đúng các quy định tại Điều 70, 71 Bộ luật tố tụng dân sự; Bị đơn không chấp hành đúng theo quy định tại Điều 70 Bộ luật tố tụng dân sự (không có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án nhân dân huyện Sơn Dương).
Về việc giải quyết vụ án, đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng các Điều 28, 147, 227, 228, 235, 238, 266, 271, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 56, 57, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:
- Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Phạm Thị T được ly hôn với anh Nguyễn Văn C.
- Về con chung: Giao cháu Nguyễn Kim O cho chị Phạm Thị T trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Anh Nguyễn Văn C không phải cấp dưỡng nuôi con.
- Về án phí: Chị Phạm Thị T phải chịu án phí theo quy định pháp luật.
- Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Chị Phạm Thị T và anh Nguyễn Văn C kết hôn tự nguyện, có đăng ký kết hôn ngày 15/3/2018 tại UBND xã Thượng Ấm, vì vậy đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Chị T khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn và giao nuôi con chung khi ly hôn, do vậy quan hệ pháp luật tranh chấp xác định là: Tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về thẩm quyền giải quyết của Tòa án: Kết quả xác minh xác định anh Nguyễn Văn C đăng ký hộ khẩu thường trú tại thôn C, xã T, huyện S. Hiện anh C đi làm ăn xa nhưng không thông báo địa chỉ cụ thể nên không rõ anh C ở đâu làm gì. Nhưng anh C vẫn liên lạc, thỉnh thoảng về thăm gia đình tại thôn C, xã T, huyện S, tỉnh Tuyên Quang.
Vì vậy, căn cứ khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án nhân dân huyện Sơn Dương thụ lý, giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền.
[3] Về tố tụng: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã gửi thông báo thụ lý vụ án và nhiều lần triệu tập anh C đến Tòa án để giải quyết, gia đình anh C đã thông báo cho anh C nhưng anh C vẫn không về, đây được xem là trường hợp người bị kiện cố tình che giấu địa chỉ, trốn tránh nghĩa vụ. Như vậy, anh C đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt. Do đó, HĐXX căn cứ khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt bị đơn.
[4] Về quan hệ hôn nhân:
Chị Phạm Thị T và anh Nguyễn Văn C kết hôn với nhau trên cơ sở tự do tìm hiểu, được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn ngày 15/3/2018 tại UBND xã Thượng Ấm là hôn nhân hợp pháp. Tuy nhiên, do cả hai không cùng chung sống, không quan tâm đến nhau và đã ly thân từ tháng 4 năm 2021 nên không thể tồn tại một gia đình hạnh phúc, tiến bộ.
Bản thân chị T xác định vợ chồng không còn tình cảm, không thể đoàn tụ được. Quá trình giải quyết vụ án, anh C không có mặt theo yêu cầu của Tòa án để tiến hành hòa giải, điều đó cho thấy anh C cũng không mong muốn hòa giải đoàn tụ.
Kết quả xác minh xác định, ngày 20/4/2021 vợ chồng anh C chị T có xảy ra xô xát, cãi vã nhau chị T đã báo công an viên, đại diện tổ dân phố đến làm việc, lập biên bản sự việc. Biên bản làm việc thể hiện sau khi xảy ra mâu thuẫn, chị T đã làm đơn xin ly hôn với anh C, anh C đã ký vào đơn ly hôn do chị viết.
Từ những căn cứ trên xác định, tình trạng hôn nhân giữa chị T và anh C đã thực sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, yêu cầu xin ly hôn của chị T là chính đáng và có căn cứ phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.
Vì vậy, cần chấp nhận yêu cầu của chị Phạm Thị T là xử cho chị T được ly hôn với anh Nguyễn Văn C.
[5] Về con chung: Chị Phạm Thị T và anh Nguyễn Văn C có 01 con chung là cháu Nguyễn Kim O, sinh ngày 13/5/2019. Xét thấy, cháu còn nhỏ, là con gái, hiện đang ở cùng với chị T, chị T hiện có nơi cư trú ổn định; anh C không có địa chỉ cư trú rõ ràng nên cần giao cháu Oanh cho chị T trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Anh C không phải cấp dưỡng nuôi con và được quyền đi lại thăm con chung, không ai được cản trở.
[6] Về tài sản chung, công nợ chung: Chị Phạm Thị T xác định không đề nghị Toà án giải quyết nên HĐXX không xem xét.
[7] Về án phí: Chị Phạm Thị T phải nộp toàn bộ án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Anh C không phải nộp án phí.
[8] Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào các Điều 28, 147, 228, 235, 238, 266, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự; các Điều 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Phạm Thị T được ly hôn với anh Nguyễn Văn C.
2. Về con chung: Giao cháu Nguyễn Kim O, sinh ngày 13/5/2019 cho chị Phạm Thị T trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Anh Nguyễn Văn C không phải cấp dưỡng nuôi con và được quyền đi lại thăm con chung, không ai được cản trở.
3. Về án phí ly hôn sơ thẩm: Chị Phạm Thị T phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0003847 ngày 11/5/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Sơn Dương. Anh Nguyễn Văn C không phải nộp án phí.
4. Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết
Bản án về việc tranh chấp hôn nhân gia đình số 88/2021/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 88/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Sơn Dương - Tuyên Quang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 29/09/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về