TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NGÃI
BẢN ÁN 23/2017/HC-ST NGÀY 19/07/2017 VỀ VIỆC KHIẾU KIỆN HÀNH CHÍNH
Ngày 19/7/2017 tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi xét xử sơ thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý số 42/2017/TLST-HC ngày 14 tháng 02 năm 2017 về “Khiếu kiện hành vi hành chính của Trung tâm đăng kiểm xe cơ giới tỉnh Quảng Ngãi” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 36/2017/QĐXXST-HC ngày 05/6/2017 giữa các đương sự:
Người khởi kiện: Ông Nguyễn Đức Q, sinh năm 1963 (có mặt)
Địa chỉ: Doanh nghiệp tư nhân H, Khu công nghiệp Q, thành phố Quảng Ngãi.
Người bị kiện: Trung tâm đăng kiểm xe cơ giới tỉnh Quảng Ngãi.
Địa chỉ: Quốc lộ 1 A, xã T, huyện S, tỉnh Quảng Ngãi.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Thanh M (Giám đốc - có mặt)
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bảo hiểm xã hội tỉnh Quảng Ngãi. Địa chỉ: Số 08, đường C, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Trương Văn N (Giám đốc)
Ông Trương Văn N ủy quyền cho ông Tiêu S (Phó Giám đốc - có mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ngày 27/12/2016, đơn khởi kiện bổ sung ngày 06/01/2017, bản tự khai ngày, biên bản đối thoại, biên bản làm việc và tại phiên tòa ông Nguyễn Đức Q trình bày:
Ngày 09/7/2007 Sở Giao thông vận tải tỉnh Quảng Ngãi ra Quyết định số 357/QĐ/SGTVT về việc tạm đình chỉ công tác và chức vụ đối với ông để điều tra vụ án, đến ngày 27/02/2013 Sở Giao thông vận tải tỉnh Quảng Ngãi ra Quyết định số 178/QĐ-SGTVT về việc cho ông thôi giữ chức vụ Giám đốc Trung tâm đăng kiểm xe cơ giới tỉnh Quảng Ngãi (gọi tắt là Trung tâm đăng kiểm). Ngày 02/4/2013 ông được thuyên chuyển công tác đến Ban an toàn giao thông tỉnh Quảng Ngãi theo Quyết định số 53/QĐ-SNV của Sở Nội vụ tỉnh Quảng Ngãi.
Trong thời gian ông bị tạm giam, tạm đình chỉ công tác từ tháng 7/2007 đến tháng 3/2013, ông không được Trung tâm đăng kiểm trích nộp chế độ Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm y tế, Bảo hiểm thất nghiệp mà Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ngãi chỉ hỗ trợ trả cho 50% tiền lương, phụ cấp lương cho ông. Ông khiếu nại đến Bảo hiểm xã hội tỉnh Quảng Ngãi và Trung tâm đăng kiểm, nhưng Bảo hiểm xã hội tỉnh trả lời trường hợp của ông không được trích đóng các chế độ Bảo hiểm xã hội. Nên ông khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc Trung tâm đăng kiểm phải trích đóng các chế độ Bảo hiểm xã hội cho ông trong thời gian từ tháng 7/2007 đến tháng 3/2013.
Trong quá trình đối thoại giải quyết vụ án thì giữa Trung tâm đăng kiểm và Bảo hiểm xã hội tỉnh Quảng Ngãi thống nhất tính trích đóng cho ông từ tháng 7/2007 đến tháng 7/2012. Thời gian từ tháng 8/2012 đến tháng 3/2013 không tính. Nên ông yêu cầu Tòa án giải quyết buộc Trung tâm đăng kiểm phải trích đóng các loại Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm y tế, Bảo hiểm thất nghiệp trong thời gian từ tháng 7/2007 đến tháng 3/2013, đồng thời tính hệ số phụ cấp chức vụ 0,5 cho ông trong thời gian từ tháng 7/2007 đến tháng 7/2012, yêu cầu Bảo hiểm xã hội tỉnh Quảng Ngãi phải thu theo Công văn số 828/BHXH-BT ngày 10/3/2016 của Bảo hiểm xã hội Việt Nam hướng dẫn về việc thu Bảo hiểm xã hội đối với công chức, viên chức trong thời gian tạm giam, tạm đình chỉ công tác.
Tại bản tự khai ngày 17/3/2017, biên bản đối thoại, biên bản làm việc và tại phiên tòa, đại diện người bị kiện trình bày;
Trung tâm đăng kiểm xe cơ giới tỉnh Quảng Ngãi đồng ý đóng các khoản Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm y tế, Bảo hiểm thất nghiệp cho ông Nguyễn Đức Q trong thời gian ông bị tạm giam, tạm đình chỉ công tác từ tháng 7/2007 đến 7/2012, căn cứ để tính thời gian trích nộp các khoản bảo hiểm cho ông Q là do Trung tâm đăng kiểm thực hiện theo Quyết định số 1972/QĐ-UBND ngày 08/12/2014 của Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ngãi thống nhất tính hỗ trợ 50% tiền lương, phụ cấp cho ông Q
Thời gian từ tháng 8/2012 đến tháng 3/2013, ông Q không đến làm việc tại Trung tâm đăng kiểm nên Trung tâm không trả lương, không có bảng lương, không có căn cứ trích đóng chế độ cho ông Q, Trung tâm đăng kiểm chưa có căn cứ để tính trong thời gian này và hiện nay các văn bản hướng dẫn việc trích nộp Bảo hiểm xã hội cho người lao động trong thời gian bị tạm giam, tạm giữ của Cơ quan chuyên môn là Bảo hiểm xã hội tỉnh Quảng Ngãi và Bảo hiểm xã hội Việt Nam chưa cụ thể, rõ ràng. Nếu có hướng dẫn cụ thể thì Trung tâm đăng kiểm sẽ tính và trích nộp thêm cho ông Q trong thời gian từ tháng 8/2012 đến 3/2013.
Ông Nguyễn Đức Q yêu cầu Trung tâm trích đóng hệ số phụ cấp chức vụ 0,5 trong thời gian từ tháng 7/2007 đến tháng 7/2012. Trung tâm không đồng ý bởi lý do trong thời gian này, Trung tâm đăng kiểm đã có Giám đốc khác thay thế ông Q, nên việc tính trích đóng hệ số phụ cấp chức vụ sẽ bị trùng lặp. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, nếu có căn cứ thì Trung tâm đăng kiểm sẽ thực hiện theo quyết định của Tòa án.
Tại văn bản trình bày ý kiến ngày 16/5/2017, biên bản đối thoại và tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền của Bảo hiểm xã hội tỉnh Quảng Ngãi trình bày;
Bảo hiểm xã hội tỉnh Quảng Ngãi là cơ quan thu, cân đối các loại Bảo hiểm xã hội cho người lao động. Trường hợp của ông Nguyễn Đức Q, Bảo hiểm xã hội tỉnh Quảng Ngãi thống nhất thu các loại Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm y tế, Bảo hiểm thất nghiệp từ tháng 7/2007 đến tháng 7/2012 theo số liệu do Trung tâm đăng kiểm cung cấp cho Bảo hiểm xã hội tỉnh và thống nhất theo bảng tính toán lập ngày 15/6/2017. Thời gian từ tháng 8/2012 đến 3/2013 Bảo hiểm xã hội tỉnh Quảng Ngãi không tính được bởi vì trong thời gian này Trung tâm đăng kiểm không có bảng lương chi trả cho ông Q nên không có căn cứ trích đóng. Bảo hiểm xã hội tỉnh Quảng Ngãi tính toán các loại bảo hiểm dựa trên thang bảng lương mà người sử dụng lao động trả cho người lao động.
Ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi tại phiên tòa sơ thẩm:
Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và những người tham gia tố tụng thực hiện đúng quy định của Luật Tố tụng hành chính.
Hành vi hành chính của Trung tâm đăng kiểm xe cơ giới tỉnh Quảng Ngãi không trích nộp các chế độ Bảo hiểm xã hội cho ông Nguyễn Đức Q trong thời gian ông bị tạm giam, tạm đình chỉ công tác là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính và còn trong thời hiệu khởi kiện. Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi thụ lý đúng thẩm quyền.
Ông Nguyễn Đức Q yêu cầu Trung tâm đăng kiểm xe cơ giới tỉnh Quảng Ngãi phải trích đóng các khoản Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm y tế, Bảo hiểm thất nghiệp trong thời gian ông bị tạm giam, tạm đình chỉ công tác từ tháng 7/2007 đến tháng 3/2013 là có căn cứ bỡi: Theo Quyết định số 357/QĐ-SGTVT ngày 09/7/2007 của Sở giao thông vận tải tỉnh Quảng Ngãi về việc tạm đình chỉ công tác đối với ông Q kể từ ngày 03/7/2007. Ngày 02/4/2013, Sở Nội vụ tỉnh Quảng Ngãi có Quyết định số 53/QĐ-SNV thuyên chuyển ông Q đến công tác tại Ban an toàn giao thông tỉnh Quảng Ngãi. Như vậy, trong thời gian từ tháng 7/2007 đến tháng 3/2013 ông Q là nhân viên của Trung tâm đăng kiểm. Nên mọi chế độ Bảo hiểm xã hội, Trung tâm đăng kiểm phải đóng cho ông Q.
Theo quyết định 178/QĐ-SGTVT ngày 27/02/2013 của Giám đốc Sở Giao thông vận tải tỉnh Quảng Ngãi về việc ông Nguyễn Đức Q thôi giữ chức Giám đốc Trung tâm đăng kiểm xe cơ giới tỉnh Quảng Ngãi kể từ ngày 25/7/2012. Như vậy, từ tháng 7/2007 đến tháng 7/2012 ông Q vẫn được hưởng hệ số phụ cấp chức vụ 0,5 là có căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 94 Luật bảo hiểm xã hội năm 2006. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Đức Q.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa và kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Ông Nguyễn Đức Q khiếu kiện hành vi hành chính của Trung tâm đăng kiểm xe cơ giới tỉnh Quảng Ngãi không trích nộp Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm y tế, Bảo hiểm thất nghiệp trong thời gian ông Q bị tạm giam, tạm đình chỉ công tác là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính, thời hiệu khởi kiện đúng quy định và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi.
[2] Về nội dung: Ông Nguyễn Đức Q nguyên là cán bộ, công chức của Trung tâm đăng kiểm xe cơ giới tỉnh Quảng Ngãi, ngày 09/7/2007 Giám đốc Sở Giao thông vận tải tỉnh Quảng Ngãi ban hành Quyết định số 357/QĐ-SGTVT về việc tạm đình chỉ công tác, chức vụ đối với ông Nguyễn Đức Q kể từ ngày 03/7/2007.
Tại khoản 2 Điều 81 Luật cán bộ, công chức quy định: “Trong thời gian bị tạm đình chỉ công tác hoặc bị tạm giữ, tạm giam để phục vụ cho công tác điều tra, truy tố, xét xử, cán bộ, công chức được hưởng lương theo quy định của Chính phủ”. Nên trong thời gian bị tạm đình chỉ công tác, ông Nguyễn Đức Q vẫn được hưởng lương và đương nhiên được đóng Bảo hiểm xã hội.
Ngày 27/02/2013, Giám đốc Sở Giao thông vận tải tỉnh Quảng Ngãi ban hành Quyết định số 178/QĐ-SGTVT về việc ông Nguyễn Đức Q thôi giữ chức Giám đốc Trung tâm đăng kiểm xe cơ giới tỉnh Quảng Ngãi từ ngày 25/7/2012. Ngày 02/4/2013 Giám đốc Sở Nội vụ tỉnh Quảng Ngãi ban hành Quyết định số 53/QĐ-SNV về việc thuyên chuyển công tác đối với ông Nguyễn Đức Q đến nhận công tác tại Ban an toàn giao thông tỉnh Quảng Ngãi từ ngày 02/4/2013.
Như vậy, từ ngày 25/7/2012 đến ngày 02/4/2013, ông Nguyễn Đức Q không còn là Giám đốc Trung tâm đăng kiểm xe cơ giới tỉnh Quảng Ngãi. Nhưng ông Q vẫn là công chức của Trung tâm đăng kiểm xe cơ giới tỉnh Quảng Ngãi. Nên thời gian này ông Q vẫn được đóng các chế độ Bảo hiểm xã hội. Mặt khác, tại Công văn số 828/BHXH –BT ngày 10/3/2016 của Bảo hiểm xã hội Việt Nam về việc thu bảo hiểm xã hội đối với công chức, viên chức trong thời gian tạm giam, tạm đình chỉ công tác và Công văn số 4604/BHXH-BT ngày 16/11/2016 của Bảo hiểm xã hội Việt Nam đều cho rằng: “Trường hợp ông Nguyễn Đức Q trong thời gian tạm giữ, tạm giam (từ tháng 7/2007 đến tháng 3/2013) để phục vụ điều tra, truy tố, xét xử, chưa bị xử lý, kỷ luật vẫn thuộc đối tượng điều chỉnh của Pháp luật về cán bộ, công chức, viên chức và thuộc đối tượng tham gia Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế bắt buộc”
Trong quá trình đối thoại, giải quyết vụ án thì Trung tâm đăng kiểm xe cơ giới tỉnh Quảng Ngãi thực hiện việc tính toán và đối chiếu với Bảo hiểm xã hội tỉnh Quảng Ngãi về số tiền bảo hiểm phải nộp cho ông Q từ tháng 7/2007 đến tháng 7/2012, gồm cả phần phụ cấp chức vụ. Nhưng còn thiếu 08 tháng (từ tháng 8/2012 đến tháng 3/2013) Trung tâm đăng kiểm không tính để trích nộp tiền bảo hiểm xã hội cho ông Q là không đúng. Trung tâm đăng kiểm cho rằng thời gian từ tháng 8/2012 đến tháng 3/2013, ông Q không đến cơ quan làm việc. Nhưng Trung tâm không có tài liệu, chứng cứ nào thể hiện ông Q không làm việc tại cơ quan. Do đó, ông Nguyễn Đức Q yêu cầu Trung tâm đăng kiểm xe cơ giới tỉnh Quảng Ngãi trích nộp chế độ Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm y tế, Bảo hiểm thất nghiệp cho ông trong thời gian từ tháng 7/2007 đến tháng 3/2013, đồng thời ông Q yêu cầu được trích đóng hệ số phụ cấp chức vụ 0,5 trong thời gian từ tháng 7/2007 đến tháng 7/2012 là có căn cứ. Vì ông Q thôi giữ chức Giám đốc Trung tâm đăng kiểm kể từ ngày 25/7/2012. Nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
Ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 30; khoản 4 Điều 32; khoản 1 Điều 115; điểm c khoản 2 Điều 193; khoản 1 Điều 348 Luật tố tụng hành chính. Khoản 2 Điều 81 Luật cán bộ, công chức năm 2008. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Đức Q.
Tuyên xử:
Hành vi hành chính của Trung tâm đăng kiểm xe cơ giới tỉnh Quảng Ngãi không trích nộp chế độ Bảo hiểm xã hội cho ông Nguyễn Đức Q là trái pháp luật.
Buộc Trung tâm đăng kiểm xe cơ giới tỉnh Quảng Ngãi phải trích nộp chế độ Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm y tế, Bảo hiểm thất nghiệp cho ông Nguyễn Đức Q trong thời gian từ tháng 7/2007 đến tháng 3/2013 và phải trích nộp phụ cấp chức vụ cho ông Nguyễn Đức Q từ tháng 7/2007 đến tháng 7/2012.
Ông Nguyễn Đức Q không phải chịu án phí hành chính sơ thẩm, hoàn trả 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) cho ông Nguyễn Đức Q đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0002869 ngày 10/02/2017 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Ngãi.
Trung tâm đăng kiểm xe cơ giới tỉnh Quảng Ngãi phải nộp 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) án phí hành chính sơ thẩm.
Các đương sự có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án.
Bản án về việc khiếu kiện hành vi hành chính số 23/2017/HC-ST
Số hiệu: | 23/2017/HC-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quảng Ngãi |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Ngày ban hành: | 19/07/2017 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về