TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 01/2024/KDTM-ST NGÀY 12/01/2024 VỀ VI PHẠM NGHĨA VỤ THANH TOÁN TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA
Trong ngày 12 tháng 01 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố B – tỉnh Đ xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 03/2023/TLST-KDTM ngày 03 tháng 01 năm 2023 về việc “Vi phạm nghĩa vụ thanh toán trong Hợp đồng mua bán hàng hóa” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 30/2023/QĐXXST-KDTM, ngày 20 tháng 11 năm 2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số 252/QĐST-KDTM ngày 14/12/2023 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Công ty cổ phần Sonadezi A.
Địa chỉ trụ sở: Số 113- 116, lô C2, đường 9, khu dân cư A, phường A, thành phố B, tỉnh Đ.
Người đại diện theo phápluật: Ông Trần Hồ D – Tổng giám đốc.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1979 (Giấy ủy quyền ngày 21/6/2022) Địa chỉ: Số 282, khu 12, xã Long Đức, huyện Long Thành, Đ.
- Bị đơn: Công ty trách nhiệm hữu hạn thƣơng mại và dịch D.
Địa chỉ trụ sở: Số B276, tổ 18, khu phố 5, phường Tân Hiệp, thành phố B, tỉnh Đ.
Người đại diện theo pháp luật: Bà Đỗ Thị Q – Chủ tịch Hội đồng thành viên kiêm giám đốc.
(Ông Đ có đơn xin vắng mặt, bà Q vắng mặt tại phiên tòa)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, tại buổi hòa giải và tại phiên tòa người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Nguyễn Văn Đ trình bày:
Ngày 18/01/2021, Công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại và dịch vụ D (gọi tắt là Công ty D) có ký kết hợp đồng mua bán bê tông số 2C/HĐMB/SZA- XNVLXD với Công ty cổ phần Sonadezi A (gọi tắt là Công ty Sonadezi A) để thi công tại xã Phú Hội, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đ. Theo đó, Công ty D đã mua bê tông của Công ty Sonadezi A với số tiền 1.394.650.003đ và đã thanh toán cho Công ty Sonadezi A tổng số tiền là 1.318.904.000đ. Số tiền còn nợ chưa thanh toán là 75.746.003đ. Tính đến ngày 30/10/2021 là đợt phát sinh công nợ cuối cùng.
Hiện nay đã quá thời hạn thanh toán theo thỏa thuận tại Điều III của hợp đồng mua bán nhưng Công D vẫn chưa thanh toán cho nguyên đơn. Mặc dù đã được nguyên đơn làm việc, thông báo về việc trả nợ nhiều lần. Nay Công ty Sonadezi A khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên buộc Công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại và dịch vụ D phải thanh toán toàn bộ số tiền nợ gốc còn nợ là 75.746.003đ và lãi suất do chậm thanh toán kể từ ngày 15/6/2021 đến ngày 12/01/2024 theo mức lãi suất 10%/năm số tiền là 19.517.825đ.
Đối với bị đơn Công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại và dịch vụ D đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các thủ tục tố tụng nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa nên không có lời trình bày.
Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa:
Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Việc chấp hành pháp luật của bị đơn là không đúng quy định của bộ luật tố tụng dân sự.
Về việc giải quyết vụ án: Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn vê số tiền nợ gốc là lãi chậm trả là có căn cứ chấp nhận. Đề nghị, hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan hệ pháp luật, tư cách đượng sự: Công ty cổ phần Sonadezi A khởi kiện yêu cầu Công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại và dịch vụ D phải thanh toán số tiền nợ gốc còn thiếu và tiền lãi chậm thanh toán cho Công ty cổ phần Sonadezi A nên căn cứ Điều 30 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 xác định quan hệ pháp luật tranh chấp của vụ án “Vi phạm nghĩa vụ thanh toán trong hợp đồng mua bán hàng hóa”. Căn cứ vào Điều 68 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 xác định Công ty cổ phần Sonadezi A là nguyên đơn, Công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại và dịch vụ D là bị đơn trong vu án.
[2] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại và dịch vụ D có trụ sở tại thành phố B, tỉnh Đ. Căn cứ vào các Điều 30, 35, 39 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 xác định vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đ.
[3] Về thủ tục tố tụng khác: Ngày 18/10/2023 người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn là ông Nguyễn Văn Đ có đơn xin vắng mặt. Công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại và dịch vụ D đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ 2 nhưng vẫn vắng mặt không lý do tại phiên tòa căn cứ Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.
[4] Về nội dung vụ án: Công ty cổ phần Sonadezi A khởi kiện yêu cầu Công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại và dịch vụ D phải thanh toán toàn bộ tiền nợ gốc và lãi chậm thanh toán phát sinh từ ngày 15/6/2021 đến ngày 12/01/2024 là 95.263.828đ. Trong đó, nợ gốc là 75.746.003đ, lãi chậm trả là 19.517.825đ.
[4.1] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về số tiền nợ gốc 75.746.003đ là có căn cứ chấp nhận vì: Nguyên đơn khởi kiện và đã cung cấp được các chứng cứ là hợp đồng mua bán số 2C/HĐMB/SZA-XNVLXD và DV ngày 18/01/2021 (Bút lục 32 - 34); bảng đối chiếu khối lượng bê tông (Bút lục 60 – 66); các giấy báo có (Bút lục 67 – 73); các hóa đơn giá trị gia tăng (Bút lục 50 – 59) và biên bản đối chiếu công nợ (Bút lục 49) thể hiện việc mua bán hàng hóa là bê tông, việc giao dịch thanh toán tiền hàng và việc Công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại và dịch vụ D còn nợ Công ty cổ phần Sonadezi A số tiền gốc 75.746.003đ.
[4.2] Xét yêu cầu về mức lãi chậm trả theo mức lãi suất 10%/năm (0,833%/tháng) với số tiền là 19.517.825đ. Căn cứ Án lệ số 09/2016/AL được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 17 tháng 10 năm 2016, về việc xác định lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường bằng mức lãi suất nợ quá hạn trung bình của ít nhất 03 Ngân hàng tại thời điểm thanh toán (xét xử sơ thẩm) và Điều 306 Luật Thương mại 2005. Hội đồng xét xử nhận thấy căn cứ để tính lãi suất chậm thanh toán cần phải áp dụng lãi suất của 03 Ngân hàng tại địa bàn thành phố B gồm: Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam; Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam và Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam thì mức lãi suất quá hạn trung bình một năm là (9% + 6,9% + 7,5%) : 3 x 150% = 11,7%. Mức lãi suất quá hạn trung bình hàng tháng là 11,7%/năm : 12 tháng = 0,975%. Tuy nhiên, phía nguyên đơn chỉ yêu cầu bị đơn trả 10%/năm (0,833%/tháng) thấp hơn quy định là có lợi cho bị đơn nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[4.3] Đối với bị đơn Công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại và dịch vụ D. Theo hồ sơ khởi kiện ban đầu nguyên đơn cung cấp thì Công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại và dịch vụ D có đăng ký địa chỉ trụ sở tại số 825BA, khu 1, ấp Phước Hội, xã Long Hưng, thành phố B, tỉnh Đ, người đại diện theo pháp luật là ông Tô Duy H. Tuy nhiên, theo Công văn số 512/ĐKKD ngày 16/8/2023 của Phòng đăng ký kinh doanh – Sở kế hoạch đầu tư tỉnh Đ (Bút lục 89, 90) cung cấp thì Công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại và dịch vụ D đã đăng ký thay đổi địa chỉ trụ sở chính từ ngày 09/5/2023 tại số B276, tổ 18, khu phố 5, phường Tân Hiệp, thành phố B, tỉnh Đ. Người đại diện theo pháp luật là bà Q. Căn cứ vào thông tin do Phòng đăng ký kinh doanh – Sở kế hoạch đầu tư tỉnh Đ cung cấp thì Tòa án nhân dân thành phố B tống đạt hợp lệ các thủ tục tố tụng cho Công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại và dịch vụ D. Tuy nhiên, trong suốt quá trình giải quyết vụ án bị đơn không lên tòa làm việc, hòa giải và xét xử, bỏ mặc Tòa án giải quyết vụ án nên được coi là trường hợp mặc nhiên thừa nhận nợ. Đồng thời, không thực hiện đúng nghĩa vụ của bị đơn theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
[5] Về án phí: Công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại và dịch vụ D phải chịu án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm là 4.763.191đ. Hoàn trả lại cho Công ty cổ phần Sonadezi A tiền tạm ứng án phí đã nộp.
[6] Ý kiến đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B tham gia phiên tòa phù hợp với các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào các Điều 30, Điều 35, Điều 39, Điều 147; Điều 203, Điều 220, Điều 227, Điều 266, Điều 273 Bộ Luật tố tụng dân sự;
Áp dụng Điều 24, 50, 301, 306 Luật thương mại; Điều 274, 275, 280 Bộ luật dân sự năm 2015; Án lệ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; Tuyên xử:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty cổ phần Sonadezi A đối với bị đơn Công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại và dịch vụ D về việc “Vi phạm nghĩa vụ thanh toán trong hợp đồng mua bán hàng hóa”.
Buộc Công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại và dịch vụ D phải thanh toán cho Công ty cổ phần Sonadezi A tổng số tiền là 95.263.828đ. Trong đó, nợ gốc là 75.746.003đ, lãi chậm trả là 19.517.825đ.
Kể từ ngày có đơn thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành theo mức lãi suất 10% tương ứng với thời gian chưa thi hành án.
Về án phí: Công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại và dịch vụ D phải chịu án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm là 4.763.191đ. Công ty cổ phần Sonadezi A được nhận lại số tiền 3.000.000đ tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp theo biên lai thu số 0005768 ngày 29/12/2022 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố B.
Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ theo quy định.
Bản án 01/2024/KDTM-ST về vi phạm nghĩa vụ thanh toán trong hợp đồng mua bán hàng hóa
Số hiệu: | 01/2024/KDTM-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Kinh tế |
Ngày ban hành: | 12/01/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về