TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N - NINH BÌNH
BẢN ÁN 47/2022/HNGĐ-ST NGÀY 25/07/2022 VỀ TUYÊN BỐ KHÔNG CÔNG NHẬN QUAN HỆ VỢ CHỒNG
Ngày 25 tháng 7 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện N mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số 146/2022/TLST- HNGĐ ngày 16 tháng 6 năm 2022 về việc: “Tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng”.Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 50/2022/QĐXXST - HNGĐ ngày 08 tháng 7 năm 2022 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Vũ Thị V, sinh năm 1974
- Bị đơn: Anh Tạ Văn Th, sinh năm 1971
Cùng trú tại: Thôn L, xã V, huyện N, tỉnh Ninh Bình. Các đương sự có đơn xin vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện, tại bản tự khai và các lời khai có trong hồ sơ vụ án, nguyên đơn Chị Vũ Thị V trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Chị và Anh Tạ Văn Th kết hôn với nhau năm 1992, có tổ chức lễ cưới theo phong tục địa phương. Tuy nhiên hiện nay anh chị cũng không còn giữ giấy đăng ký kết hôn và tại Ủy ban nhân xã V, huyện N cũng không còn thông tin lưu trữ về việc anh chị có đăng ký kết hôn tại đây. Sau khi kết hôn, hai vợ chồng sinh sống tại Thôn L, xã V, huyện N, tỉnh Ninh Bình và hạnh phúc được khoảng 10 năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh chị luôn xảy ra bất đồng quan điểm, không tìm được tiếng nói chung. Hiện anh chị chính thức ly thân được 10 năm nay, không ai quan tâm đến ai về mọi mặt. Nay Chị V thấy tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống hôn nhân không thể tồn tại nên chị giữ nguyên quan điểm đề nghị Tòa án giải quyết tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng giữa chị và Anh Tạ Văn Th.
Về con chung: Chị V xác định chị và Anh Th có 02 con chung là các cháu Tạ Minh Đ sinh ngày 07/9/1993; cháu Tạ Minh Đ1 sinh ngày 19/5/1997. Hiện cả hai cháu đã trưởng thành tự lập nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về tài sản chung,công nợ chung: Chị V không yêu cầu Tòa án giải quyết
Ý kiến của bị đơn Anh Tạ Văn Th: Được thể hiện trong bản tự khai, biên bản phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ, cụ thể như sau:
Về quan hệ hôn nhân: Anh Th xác định thời điểm kết hôn và chung sống như Chị V trình bày là đúng. Theo anh vợ chồng anh chị sống hạnh phúc được khoảng vài năm đầu thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân vợ chồng không có tiếng nói chung, dẫn đến những va chạm mâu thuẫn xảy ra. Anh chị đã ly thân nhiều năm nay. Nay Chị V xin tuyên bố không công nhận là vợ chồng với anh thì anh cũng đồng ý vì anh cũng xác định không còn tình cảm với chị V.
Về con chung: Anh xác định anh và Chị V có 02 con chung là các cháu Tạ Minh Đ sinh ngày 07/9/1993; cháu Tạ Minh Đ sinh ngày 19/5/1997. Hiện cả hai cháu đã trưởng thành tự lập nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về tài sản chung, công nợ chung: Anh Th không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tại Công văn số 21/CV-UBND ngày 16/6/2022 của UBND xã V đã cung cấp thông tin: Về việc thực hiện đăng ký kết hôn thì hiện nay tại hồ sơ lưu trữ của UBND xã V từ năm 1999 trở về trước không còn. Kể từ năm 1999 đến nay Anh Th và Chị Vchưa thực hiện việc đăng ký kết hôn tại địa phương lần nào.
Tại đơn xin xử vắng mặt, nguyên đơn và bị đơn vẫn giữ nguyên quan điểm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1]. Về thủ tục tố tụng:
[1.1]. Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Đây là quan hệ pháp luật “Tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng” theo quy định tại khoản 8 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
[1.2]. Về thẩm quyền giải quyết của Tòa án: Bị đơn có nơi cư trú tại xã V , huyện N, tỉnh Ninh Bình nên Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Ninh Bình thụ lý vụ án là phù hợp với quy định tại điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
[1.3] Về sự vắng mặt của đương sự: Nguyên đơn và bị đơn vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Do đó, Hội đồng xét xử áp dụng Điều 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt các đương sự.
[2]. Về nội dung: Căn cứ các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa HĐXX nhận thấy:
[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Vũ Thị V và Anh Tạ Văn Th về chung sống với nhau năm 1992, anh chị khai có đăng ký kết hôn nhưng hiện nay giấy đăng ký kết hôn đã mất, anh chị cũng không chứng minh được việc đã đăng ký kết hôn với nhau. Xác nhận của UBND xã V cũng khẳng định không có hồ sơ chứng minh Chị V và Anh Th đã đăng ký kết hôn tại ủy ban. Việc anh chị chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 1992 đến nay cũng không thực hiện việc đăng ký kết hôn lại tại Ủy ban nhân xã nơi cư trú của hai bên là trái quy định của pháp luật nên không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng. Nay Chị V yêu cầu Tuyên bố không công nhận vợ chồng với Anh Th là phù hợp với quy định tại Điều 9, khoản 1 Điều 14, khoản 2 Điều 53 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.
[2.2] Về nuôi con chung: Cả hai bên đêu thừa nhận có 02 con chung là các cháu Tạ Minh Đ sinh ngày 07/9/1993; cháu Tạ Minh Đ1 sinh ngày 19/5/1997. Hiện cả hai cháu đã trưởng thành tự lập, vì vậy không đặt ra việc giải quyết trong vụ án này.
[2.3] Về tài sản chung và nợ chung: Các đương không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[2.4] Về án phí: Chị Vũ Thị V phải chịu 300.000đ tiền án phí dân sự sơ thẩm.
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ các điều 147, 227, 238, 266, 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự.
- Áp dụng khoản 1 Điều 9, khoản 1 Điều 14, Điều 15, khoản 2 Điều 53, Luật hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu án phí Toà án.
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Chị Vũ Thị V.
Tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng giữa Chị Vũ Thị V và Anh Tạ Văn Th.
2. Án phí dân sự sơ thẩm: Chị Vũ Thị V phải nộp là 300.000 đồng. Được trừ vào số tiền tiền tạm ứng án phí Chị V đã nộp 300.000đ theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2021/0003621 ngày 16/6/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện N.
3. Quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể nhận được bản án.
Bản án 47/2022/HNGĐ-ST về tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng
Số hiệu: | 47/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Nho Quan - Ninh Bình |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 25/07/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về