Bản án về tranh chấp yêu cầu tuyên bố hợp đồng lao động vô hiệu số 30/2024/LĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẾN CÁT, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 30/2024/LĐ-ST NGÀY 06/12/2024 VỀ TRANH CHẤP YÊU CẦU TUYÊN BỐ HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG VÔ HIỆU

Ngày 06 tháng 12 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Bến Cát, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án Lao động thụ lý số 54/2024/TLST-LĐ ngày 03 tháng 10 năm 2024 về việc: “Tranh chấp về việc yêu cầu tuyên bố hợp đồng lao động vô hiệu” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 21/2024/QĐXXST-LĐ ngày 19 tháng 11 năm 2024, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Hồ Lê Kim A, sinh năm 1995; nơi thường trú: Tổ C, ấp T, xã P, huyện V, tỉnh Kiên Giang; vắng mặt, có đơn đề nghị vắng mặt.

- Bị đơn: Công ty Trách nhiệm hữu hạn C; địa chỉ trụ sở: Lô M-CN, khu công nghiệp M, phường M, thành phố B, tỉnh Bình Dương.

Người đại diện hợp pháp của bị đơn: Bà Nguyễn Thị Tú T, sinh năm 1986; nơi thường trú: Số A, đường N, phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương, là người đại diện theo ủy quyền (Giấy ủy quyền ngày 07/11/2024); vắng mặt, có đơn đề nghị vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Huỳnh Thị Chúc L, sinh năm 1996; nơi thường trú: Ấp T, xã P, huyện V, tỉnh Kiên Giang; nơi tạm trú: Đường L, tổ F, ấp B, huyện B, tỉnh Bình Dương; vắng mặt, có đơn đề nghị vắng mặt.

- Bảo hiểm xã hội thành phố B, tỉnh Bình Dương; địa chỉ trụ sở: Phường M, thành phố B, tỉnh Bình Dương; vắng mặt, có đơn đề nghị vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại Đơn khởi kiện đề ngày 09/9/2024, Đơn thay đổi yêu cầu khởi kiện ngày 15/10/2024 và quá trình tham gia tố tụng, nguyên đơn trình bày:

Vào tháng 9/2013, bà có cho cháu của bà là Huỳnh Thị Chúc L mượn Chứng minh nhân dân của bà để cho bà L đi làm tại Công ty Trách nhiệm hữu hạn C; địa chỉ trụ sở: Lô M-CN, khu công nghiệp M, phường M, thành phố B, tỉnh Bình Dương. Khi bà L tham gia lao động tại Công ty Trách nhiệm hữu hạn C thì giữa bà L với Công ty Trách nhiệm hữu hạn C có ký kết Hợp đồng lao động số 009771, ngày 09/01/2013 và Hợp đồng lao động số 009771, ngày 01/9/2014 và Công ty Trách nhiệm hữu hạn C có đóng bảo hiểm xã hội cho bà L tại Bảo hiểm xã hội B trong khoảng thời gian từ tháng 9/2013 đến tháng 01/2015 theo số sổ bảo hiểm xã hội: 7413237784.

Trong khoảng thời gian bà L tham gia đóng bảo hiểm xã hội và đi làm tại Công ty Trách nhiệm hữu hạn C, thì cá nhân bà cũng đi làm công nhân tại Chi nhánh sản xuất Công ty L1, địa chỉ chi nhánh: Cụm C, Đức Hòa Đ, huyện Đ, tỉnh Long An và tham gia đóng bảo hiểm tại Bảo hiểm xã hội tỉnh Long An, thời gian từ tháng 12/2013 cho đến tháng 11/2016, thì bà nghỉ làm việc tại Chi nhánh sản xuất Công ty L1.

Hiện nay bà có nhu cầu rút tiền bảo hiểm xã hội thì không được do bị trùng bảo hiểm với bà L.

Theo Đơn khởi kiện ngày 09/9/2024, bà khởi kiện yêu cầu:

- Hủy hợp đồng lao động được ký kết giữa bà Hồ Lê Kim A với Công ty trách nhiệm hữu hạn C.

- Hủy kết quả quá trình đóng bảo hiểm xã hội từ tháng 09/2023 đến tháng 01/2015 theo sổ bảo hiểm xã hội số: 7413237784 cấp cho bà Hồ Lê Kim A.

Theo Đơn thay đổi yêu cầu khởi kiện ngày 15/10/2024, bà thay đổi yêu cầu khởi kiện, nội dung thay đổi như sau:

- Tuyên Hợp đồng lao động số 009771, ngày 09/01/2013 và Hợp đồng lao động số 009771, ngày 01/9/2014 ký kết giữa bà Hồ Lê Kim A với Công ty trách nhiệm hữu hạn C, là vô hiệu.

- Điều chỉnh tên Hồ Lê Kim A, sinh năm 1995, số chứng minh nhân dân 371763050 trên sổ Bảo hiểm xã hội mã số 7413237784 thành tên Huỳnh Thị Chúc L, sinh năm 1996; số căn cước công dân: 091196008615 của quá trình đóng bảo hiểm xã hội từ tháng 09/2023 đến tháng 01/2015.

Tại văn bản số 01/CY-TAND/2024 ngày 12/11/2024, người đại diện hợp pháp của bị đơn, bà Nguyễn Thị Tú T trình bày:

Theo như hồ sơ khởi kiện của bà Hồ Lê Kim A là không đúng, vì Công ty trách nhiệm hữu hạn C đã rà soát lại toàn bộ hồ sơ từ lúc người lao động vào làm việc cho đến khi thôi việc đã làm đúng theo quy định của Bộ luật Lao động và Luật Bảo hiểm xã hội như sau: Bà Hồ Lê Kim A vào làm việc ngày 01/8/2013, ký hợp đồng xác định thời hạn từ ngày 01/9/2013 đến ngày 01/9/2014, nghỉ việc từ ngày 15/01/2015. Tham gia bảo hiểm xã hội từ tháng 09/2013 và giảm hàn Bảo hiểm xã hội từ tháng 02/2015. Công ty trách nhiệm hữu hạn C căn cứ hồ sơ xin việc tự nguyện của bà A, có chứng thực của cơ quan nhà nước để làm cơ sở ký kết hợp đồng lao động và tham gia bảo hiểm xã hội theo đúng quy định pháp luật. Đề nghị Tòa án xem xét, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Công ty trách nhiệm hữu hạn C.

Tại văn bản số 679/CV-BHXH ngày 18/10/2024, Bảo hiểm xã hội thành phố B trình bày:

Công ty trách nhiệm hữu hạn C đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp cho bà Hồ Lê Kim A, sinh ngày 02/5/1995, số chứng minh 371763050, mã số bảo hiểm xã hội 7413237784 và quá trình như sau:

- Từ tháng 9/2013 đến tháng 12/2013, công nhân với mức lương 2.940.000 đồng.

- Từ tháng 019/2014 đến tháng 02/2014, công nhân với mức lương 3.290.000 đồng.

- Từ tháng 03/2014 đến tháng 12/2014, công nhân với mức lương 3.290.000 đồng.

- Từ tháng 01/2015 đến tháng 01/2015, công nhân với mức lương 3.790.000 đồng.

Quá trình trên của bà Hồ Lê Kim A đã được Bảo hiểm xã hội tỉnh B chốt sổ nhưng chưa hưởng chế độ trợ cấp bảo hiểm xã hội một lần và bảo hiểm thất nghiệp.

Tại Bản tự khai, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Huỳnh Thị Chúc L trình bày:

Do chưa đủ tuổi lao động nên bà mượn hồ sơ của nguyên đơn bà Hồ Lê Kim A - là di của bà để đủ điều kiện tham gia lao động. Khi tham gia lao động tại Công ty Trách nhiệm hữu hạn C, giữa bà với Công ty có ký kết hợp đồng lao động và Công ty Trách nhiệm hữu hạn C cũng đóng bảo hiểm cho bà trong khoảng thời gian từ tháng 9/2013 đến tháng 01/2015 theo số số bảo hiểm xã hội: 7413237784. Tuy nhiên, hiện nay bà không có lưu giữ bất kỳ giấy tờ nào trong việc tham gia hợp đồng lao động với Công ty Trách nhiệm hữu hạn C. Nay bà thống nhất yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn vì thực tế nguyên đơn không tham gia lao động tại Công ty Trách nhiệm hữu hạn C và cũng không tham gia đóng bảo hiểm xã hội trong khoảng thời gian từ tháng 9/2013 đến tháng 01/2015 theo số số bảo hiểm xã hội: 7413237784.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bến Cát, tỉnh Bình Dương phát biểu ý kiến:

Về tố tụng: Vụ án thụ lý đúng theo quy định của pháp luật. Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên toà, các đương sự đã tuân thủ đúng các quy định của pháp luật tố tụng.

Về nội dung: Căn cứ các tài liệu chứng cứ có tại hồ sơ vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: 1.2 Về sự vắng mặt của các đương sự: Nguyên đơn; bị đơn; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu giải quyết vắng mặt. Căn cứ khoản 1 Điều 227; khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự nêu trên.

1.3 Về quan hệ pháp luật: Theo Thông báo thụ lý vụ án số 54/TB-TLVA ngày 03/10/2024, xác định quan hệ lao động là “Tranh chấp về Hợp đồng lao động” là chưa chính xác, nay Hội đồng xét xử xác định lại quan hệ pháp luật của vụ án là: “Tranh chấp về việc yêu cầu tuyên bố hợp đồng lao động vô hiệu”.

[2] Về nội dung vụ án:

[2.1] Quá trình tham gia bảo hiểm xã hội của người lao động tên Hồ Lê Kim A như sau:

Mã số bảo hiểm xã hội 413237784 từ tháng 9/2013 đến tháng 01/2015 tại Công ty Trách nhiệm hữu hạn C.

Mã số bảo hiểm xã hội 8013038846 từ tháng 12/2013 cho đến tháng 11/2016 tại Công ty L1.

[2.2] Căn cứ dữ liệu bảo hiểm xã hội, có căn cứ xác định nguyên đơn và người lao động tên Hồ Lê Kim A, sinh năm sinh năm 1995, số căn cước công dân 091195009035, có quá trình tham gia bảo hiểm xã hội như mục [2.1] là một người. Quá trình tố tụng nguyên đơn thừa nhận, trong khoảng thời gian từ tháng 12/2013 cho đến tháng 11/2016, nguyên đơn tham gia lao động tại Công ty L1 và có tham gia bảo hiểm xã hội với mã số bảo hiểm xã hội là 8013038846; đồng thời, nguyên đơn cũng thừa nhận nguyên đơn không ký hợp đồng lao động và không làm việc tại Công ty Trách nhiệm hữu hạn C, mà nguyên đơn cho cháu là bà Huỳnh Thị Chúc L mượn chứng minh nhân dân và thông tin để ký hợp đồng lao động với Công ty Trách nhiệm hữu hạn C. Bà L thống nhất lời trình bày của nguyên đơn và xác định, do không đủ tuổi lao động nên đã mượn chứng minh nhân dân và hồ sơ lao động của nguyên đơn để ký kết hợp đồng lao động với Công ty Trách nhiệm hữu hạn C và tham gia bảo hiểm xã hội tại B (nay là thành phố) Bến Cát với mã số bảo hiểm xã hội là 413237784. Như vậy, có đủ cơ sở xác định trong khoảng thời gian từ tháng 12/2013 cho đến tháng 11/2016, nguyên đơn làm việc tại Công ty L1, không làm việc tại Công ty Trách nhiệm hữu hạn C. Việc bà L sử dụng chứng minh nhân dân, thông tin của bà nguyên đơn để giao kết hợp đồng lao động Công ty Trách nhiệm hữu hạn C là hành vi lửa đối về mặt chủ thể khi xác lập giao dịch dân sự, vi phạm nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, hợp tác, tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của nhau khi xác lập quan hệ lao động theo quy định tại Điều 9 Bộ luật Lao động năm 1994. Do đó việc nguyên đơn yêu cầu tuyên vô hiệu hợp đồng lao động giữa bà Hồ Lê Kim A với Công ty Trách nhiệm hữu hạn C, điều chỉnh tên Hồ Lê Kim A, sinh năm 1995, số chứng minh nhân dân 371763050 trên sổ Bảo hiểm xã hội mã số 7413237784 thành tên Huỳnh Thị Chúc L, sinh năm 1996; số căn cước công dân: 091196008615 của quá trình đóng bảo hiểm xã hội từ tháng 09/2023 đến tháng 01/2015 là có căn cứ theo quy định tại Điều 127, Điều 132 Bộ luật Dân sự năm 2005, nên Hội đồng xét xử chấp nhận. Nguyên đơn chỉ yêu cầu tuyên bố hợp đồng lao động vô hiệu, ngoài ra không yêu cầu giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu, bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu gì trong vụ án. Đây là quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự theo quy định tại Điều 5 Bộ luật Tố tụng dân sự, do đó Tòa án không xem xét giải quyết về hậu quả của hợp đồng vô hiệu. Sau khi Bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật, người lao động có quyền liên hệ cơ quan Bảo hiểm xã hội để được giải quyết các chế độ bảo hiểm xã hội theo quy định.

[3] Ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát tại phiên tòa là phù hợp nên chấp nhận.

[4] Án phí lao động sơ thẩm: Nguyên đơn tự nguyện chịu toàn bộ án phí.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 5, 32, 35, 39, 147, 228, 229, 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ Điều 127 và Điều 132 Bộ luật Dân sự năm 2005;

Căn cứ Điều 9 Bộ luật Lao động năm 1994; Điều 50 và Điều 190 Bộ luật Lao động năm 2019;

Căn cứ Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Hồ Lê Kim A về việc “Tranh chấp về yêu cầu tuyên bố hợp đồng lao động vô hiệu”.

- Tuyên Hợp đồng lao động số 009771, ngày 09/01/2013 và Hợp đồng lao động số 009771, ngày 01/9/2014 được ký kết giữa bà Hồ Lê Kim A với Công ty trách nhiệm hữu hạn C, là vô hiệu.

- Điều chỉnh tên Hồ Lê Kim A, sinh năm 1995, số chứng minh nhân dân 371763050 trên sổ Bảo hiểm xã hội mã số 7413237784 thành tên Huỳnh Thị Chúc L, sinh năm 1996; số căn cước công dân: 091196008615 của quá trình đóng bảo hiểm xã hội từ tháng 09/2023 đến tháng 01/2015.

Bà Hồ Lê Kim A và bà Huỳnh Thị Chúc L được quyền liên hệ Cơ quan Bảo hiểm xã hội thành phố B, tỉnh Bình Dương để điều chỉnh thay đổi thông tin trên sổ bảo hiểm theo quyết định của Bản án này.

2. Án phí lao động sơ thẩm: Bà Hồ Lê Kim A phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí sơ thẩm.

3. Về quyền kháng cáo: Các đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

31
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

 Bản án về tranh chấp yêu cầu tuyên bố hợp đồng lao động vô hiệu số 30/2024/LĐ-ST

Số hiệu:30/2024/LĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Bến Cát - Bình Dương
Lĩnh vực:Lao động
Ngày ban hành: 06/12/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;