TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI DƯƠNG, TỈNH HẢI DƯƠNG
BẢN ÁN 12/2024/DS-ST NGÀY 19/04/2024 VỀ TRANH CHẤP YÊU CẦU TIẾP TỤC THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG, GIA HẠN THỜI HẠN THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG, ĐÒI BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI VÀ YÊU CẦU PHẢN TỐ YÊU CẦU TUYÊN BỐ HỢP ĐỒNG VÔ HIỆU
Ngày 19 tháng 4 năm 2024, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai theo thủ tục thông thường vụ án dân sự thụ lý số 78/2022/TLST-DS ngày 15 tháng 11 năm 2022 về tranh chấp “Yêu cầu tiếp tục thực hiện hợp đồng, gia hạn thời hạn thực hiện hợp đồng, yêu cầu bồi thường thiệt hại” và yêu cầu phản tố “Tuyên bố Hợp đồng vô hiệu” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 06/2024/QĐXXST-DS ngày 24 tháng 01 năm 2024; Quyết định hoãn phiên tòa và thông báo thời gian địa điểm mở lại phiên tòa giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Phạm Thị Hải H, sinh năm 1981; nơi đăng ký cư trú và cư trú: Số 6b/11/193 B, Khu A, phường T, thành phố H, tỉnh Hải Dương (có mặt).
- Bị đơn: Trung tâm ứng dụng khoa học, công nghệ và khảo nghiệm giống - thuộc Sở Khoa học và công nghệ tỉnh H - địa chỉ: Số B N, phường T, thành phố H, tỉnh Hải Dương;
Người đại diện theo pháp luật: Bà Nguyễn Thị T - Giám đốc (có mặt).
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn: Ông Nguyễn Kiều Đ - Luật sư Văn phòng L - địa chỉ: Số A đường H, thành phố H, tỉnh Hải Dương (có mặt khi xét xử - vắng mặt khi tuyên án).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
+ Văn phòng các chương trình Khoa học và công nghệ Quốc gia - thuộc Bộ K và Công nghệ - địa chỉ: Số A T, phường T, quận C, thành phố Hà Nội.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Phú B - Phụ trách Văn phòng (có mặt khi xét xử - vắng mặt khi tuyên án).
+ Sở Khoa học và công nghệ tỉnh H - địa chỉ: Số B N, phường T, thành phố H, tỉnh Hải Dương.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Phạm Văn M - Giám đốc Người đại diện theo ủy quyền: Ông Lê Lương T1 - Phó Giám đốc (có mặt).
Người làm chứng: Ông Nguyễn Cao Đ1 - nguyên quyền giám đốc Trung tâm Ứng dụng khoa học, công nghệ và khảo nghiệm giống (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, biên bản lấy lời khai, các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và tại phiên tòa. Nguyên đơn bà Phạm Thị Hải H trình bày:
Ngày 06/5/2020, quyền Giám đốc Trung tâm Ứ (sau đây gọi tắt là Trung tâm) và bà Phạm Thị Hải H giao kết Hợp đồng giao khoán thực hiện dự án khoa học và sản xuất và dịch vụ hoa lan hồ điệp số 05/2020-2024/HĐGK-TTƯD (sau đây gọi tắt là Hợp đồng 05), Hợp đồng có thời hạn 60 tháng kể từ tháng 3/2020 đến tháng 3/2025 với phương thức khoán gọn, huy động 100% vốn đầu tư đối ứng, thu sản phẩm bằng tiền mặt hoặc chuyển khoản, tổng giá trị của Hợp đồng là 800 triệu đồng. Theo hợp đồng bà H phải chủ động huy động vốn đối ứng để thực hiện dự án khoa học đến khi dự án được nghiệm thu; đầu tư toàn bộ công lao động trực tiếp; đầu tư 50% chi phí tiền điện nước trong thời gian thực hiện dự án và phải chịu 100% chi phí điện nước sau khi kết thúc dự án. Theo lộ trình thực hiện Hợp đồng, bà H phải thanh toán mức giao khoán về Trung tâm; cụ thể trong 3 năm thực hiện dự án năm 2020 số tiền 70 triệu đồng, năm 2021 số tiền 130 triệu đồng, năm 2022 số tiền 150 triệu đồng, sau khi kết thúc dự án đến năm 2023 số tiền là 200 triệu đồng và năm 2024 số tiền 250 triệu đồng. Về quyền lợi bà H được quyền sử dụng toàn bộ cơ sở vật chất và nhân lực trong khuôn khổ của dự án để hoàn thành xây dựng mô hình trong thời gian còn lại của hợp đồng; được chủ động hoàn toàn trong tổ chức sản xuất và tiêu thụ sản phẩm (đối với hoa thương phẩm), được hưởng toàn bộ lợi nhuận sau khi đã trừ đi chi phí vốn đầu tư, công lao động và nộp khoản; được sử dụng hệ thống 1.240 m2 nhà lưới hiện đại trong đó 240 m2 nhà lưới nhân giống là cơ sở vật chất có sẵn của Trung tâm và 1.000m2 nhà lưới sản xuất hoa lan hồ điệp hình thành từ dự án tại khu công nghệ cao của Trung tâm đặt tại xã T, huyện G, tỉnh Hải Dương; được sử dụng cơ sở vật chất phục vụ khu công nghệ cao và dịch vụ giới thiệu sản phẩm như: nhà giới thiệu sản phẩm, nhà điều hành và nhà nghỉ công nhân, sử dụng có hiệu quả toàn bộ diện tích đất trống xung quanh khi Trung tâm chưa sử dụng đến; được Trung tâm bố trí điểm dịch vụ giới thiệu sản phẩm Hoa lan Hồ điệp tại trụ sở công phía nam số I Đ, thành phố H.
Bà H xác định Hợp đồng 05 bao gồm cả phục vụ thực hiện dự án khoa học và thực hiện dịch vụ. Đối với phần dịch vụ, sau khi ký hợp đồng bà H đã tự đầu tư nhập về 10.500 cây lan hồ điệp giống nhưng do sự cố mất điện vào ngày 09/5/2020 dẫn tới nhiệt độ cao ảnh hưởng tới 7.000 cây lan không hồi phục gây thiệt hại khoảng 350 triệu đồng. Ngày 25/5/2020 bà H đã có đơn đề nghị với trung tâm xem xét hỗ trợ, miễn giảm giao khoán sản phẩm, đến ngày 29/5/2020 Trung tâm đã có văn bản thống nhất miễn toàn bộ số tiền nộp khoán năm 2020 cho bà H theo nội dung hợp đồng 05 đã ký với số tiền là 70.000.000 đồng.
Ngày 10/7/2020, bà H có đơn đề nghị với Trung tâm về việc cho phép đầu tư, bổ sung một số hạng mục phục vụ sản xuất, kinh doanh sản phẩm khoa học công nghệ như dựng vách ngăn chia nhà lưới trồng lan thành hai khoang có cách nhiệt và bảo ôn 140 m2 với số tiền 16.800.000 đồng, làm hệ thống cổng và đồ đường trên diện tích lưu không, mương tiêu trước cửa nhà giới thiệu sản phẩm tại khu công nghệ cao với số tiền 35.500.000 đồng, lắp đặt hệ thống ống lấy nước mưa từ mái nhà lưới với số tiền 2.200.000 đồng và được Trung tâm đồng ý về mặt chủ trương nên bà H đã thực hiện đầu tư các hạng mục này.
Ngày 21/5/2020, Trung tâm và bà H tiếp nhận 20.000 cây lan hồ điệp giống để bà H thực hiện chăm sóc. Ngày 28/8/2020 bà H nộp tiền đối ứng mua khay, bầu trồng lan về Trung tâm số tiền 34.400.000 đồng theo hóa đơn bán hàng ngày 30/5/2020 và phiếu thu ngày 28/8/2020; ngày 22/10/2020 bà H nộp tiền đối ứng tiền mua phân bón về Trung tâm số tiền 47.100.000 đồng theo hóa đơn bán hàng ngày 26/5/2020 và phiếu thu ngày 22/10/2020; ngày 26/11/2020 bà H nộp tiền đối ứng dự án mua vật tư phục vụ mô hình sản xuất hoa lan hồ điệp (khay, bầu) về Trung tâm số tiền là 78.000.000 đồng theo hóa đơn bán hàng ngày 28/9/2020 và phiếu thu ngày 26/11/2020; ngày 15/12/2020 bà H nộp tiền đối ứng mua phân bón về Trung tâm số tiền 79.900.000 đồng theo hóa đơn bán hàng ngày 14/10/2020 và phiếu thu ngày 15/12/2020; tiền điện, nước năm 2020 bà H nộp về trung tâm số tiền 51.992.784 đồng; ngày 11/5/2021 bà H nộp tiền đối ứng dự án mua vật tư thực hiện dự án công nghệ cao (khay, bầu) về Trung tâm số tiền là 92.250.000 đồng theo hóa đơn bán hàng và phiếu thu ngày 11/5/2021; ngày 18/5/2021 bà H nộp tiền đối ứng mua vật tư, phân bón trồng lan về Trung tâm số tiền 61.400.000 đồng theo hóa đơn bán hàng và phiếu thu ngày 18/5/2021; ngày 17/02/2022 bà H nộp số tiền tạm thu tiền điện nước năm 2021 của tổ sản xuất hoa lan theo hợp đồng 05 số tiền 100.000.000 đồng theo phiếu thu ngày 17/2/2022 và nộp tiền giao khoán lan năm 2021 số tiền 130.000.000 đồng; bà H trả tiền công lao động phổ thông 127.000.000 đồng. Tổng số tiền bà H đã nộp đối ứng về trung tâm và trả công lao động phổ thông là 802.042.784 đồng.
Ngày 27/12/2021 Trung tâm ra thông báo số 55 xác định hợp đồng số 05 giao kết không đúng pháp luật, đề nghị bà H chấm dứt thực hiện hợp đồng. Ngày 31/12/2021, Trung tâm đã ban hành quyết định số 102 thành lập tổ chỉ đạo, quản lý, chăm sóc, tiêu thụ hoa lan hồ điệp thuộc dự án. Tuy nhiên, bà H không đồng ý mà căn cứ vào quy định tại Hợp đồng 05 đã tiến hành tổ chức thu hoạch, tiêu thụ và thụ hưởng toàn bộ giá trị số lan hồ điệp thành phẩm với số tiền bà H xác định không nhớ chính xác nhưng theo báo cáo bà H gửi về Trung tâm là khoảng 1.700.000.000 đồng.
Nay bà H xác định bà giao kết hợp đồng 05 với Trung tâm với tư cách cá nhân, do vậy việc giao kết hoàn toàn phù hợp với pháp luật, bà đã thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ giao kết tại hợp đồng nên việc Trung tâm tự ý đơn phương chấm dứt hợp đồng trước hạn bà không đồng ý nên bà khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc Trung tâm phải tiếp tục thực hiện các nội dung hợp đồng đã ký, phải bù thêm thời gian 01 năm gián đoạn mà bà không được thực hiện. Trường hợp không thực hiện hợp đồng thì phải bồi thường thiệt hại cho bà số tiền 1.200.000.000 đồng do còn thời gian 3 năm chưa được thực hiện.
Tại các văn bản trình bày ý kiến, biên bản lấy lời khai, quá trình làm việc tại Tòa án và tại phiên tòa phía bị đơn trình bày:
Ngày 22/5/2019, Văn phòng Chương trình nông thôn miền núi (nay là Văn phòng các chương trình Khoa học và công nghệ Quốc gia - thuộc Bộ K và Công nghệ) cùng Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh H (bên A) giao kết với Trung tâm ứng dụng khoa học, công nghệ và khảo nghiệm giống (bên B) Hợp đồng số 49/2019-NTMN.TW về việc thực hiện dự án thuộc Chương trình hỗ trợ ứng dụng, chuyển giao tiến bộ khoa học và công nghệ thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội nông thôn, miền núi, vùng dân tộc thiểu số giai đoạn 2016-2025. Theo Hợp đồng, bên A đặt hàng và bên B nhận đặt hàng để chủ trì thực hiện dự án “Xây dựng mô hình ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất hoa lan hồ điệp và dưa thơm không dùng đất trên địa bàn tỉnh Hải Dương” (sau đây gọi tắt là Dự án) theo các nội dung trong Thuyết minh dự án đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt; thời gian thực hiện dự án là 30 tháng, từ tháng 5/2019 đến tháng 10/2021; giá trị của hợp đồng là 4.310.000.000 đồng, ngoài ra kinh phí thực hiện từ nguồn khác như nguồn tự có và huy động khác. Tại hợp đồng còn quy định về quyền, nghĩa vụ của các bên, quy định về trình tự giao nhận sản phẩm cũng như các trường hợp chấm dứt Hợp đồng… Ngày 23/5/2019, quyền Giám đốc Trung tâm ứng dụng khoa học, công nghệ và khảo nghiệm giống đã ban hành Quyết định số 34B quy định về quy chế chi tiêu nội bộ áp dụng cho quản lý dự án; Quyết định phân công nhiệm vụ thành viên Ban chủ nhiệm dự án. Cùng ngày 23/5/2019, quyền Giám đốc Trung tâm và bà Phạm Thị Hải H - Phó trưởng phòng nghiên cứu ứng dụng, chuyển giao công nghệ và phát triển thị trường đồng thời là Chủ nhiệm đề tài giao kết Hợp đồng giao khoán công việc số 59A để thực hiện dự án vào các ngày nghỉ và ngoài giờ hành chính.
Ngày 05/3/2020, Trung tâm đã tiến hành hợp cán bộ chủ chốt ban hành Quy chế huy động vốn thực hiện cơ chế khoán dịch vụ để đưa ra các phương án huy động vốn và lựa chọn phương án huy động từ viên chức, lao động trong Trung tâm, theo hình thức khoán và người nhận khoán phải tự lo 100% vốn để thực hiện dự án.
Đến ngày 06/5/2020, quyền Giám đốc Trung tâm và bà Phạm Thị Hải H giao kết Hợp đồng giao khoán thực hiện dự án khoa học và sản xuất và dịch vụ hoa lan hồ điệp số 05/2020-2024/HĐGK-TTƯD, Hợp đồng có thời hạn 60 tháng kể từ tháng 3/2020 đến tháng 3/2025 với phương thức khoán gọn, huy động 100% vốn đầu tư đối ứng, thu sản phẩm bằng tiền mặt hoặc chuyển khoản, tổng giá trị của Hợp đồng là 800 triệu đồng. Theo hợp đồng bà H phải chủ động huy động vốn đối ứng để thực hiện dự án khoa học đến khi dự án được nghiệm thu; đầu tư toàn bộ công lao động trực tiếp; đầu tư 50% chi phí tiền điện nước trong thời gian thực hiện dự án và phải chịu 100% chi phí điện nước sau khi kết thúc dự án. Theo lộ trình thực hiện Hợp đồng, bà H phải thanh toán mức giao khoán về Trung tâm; cụ thể trong 3 năm thực hiện dự án năm 2020 số tiền 70 triệu đồng, năm 2021 số tiền 130 triệu đồng, năm 2022 số tiền 150 triệu đồng, sau khi kết thúc dự án đến năm 2023 số tiền là 200 triệu đồng và năm 2024 số tiền 250 triệu đồng. Về quyền lợi bà H được quyền sử dụng toàn bộ cơ sở vật chất và nhân lực trong khuôn khổ của dự án để hoàn thành xây dựng mô hình trong thời gian còn lại của hợp đồng; được chủ động hoàn toàn trong tổ chức sản xuất và tiêu thụ sản phẩm (đối với hoa thương phẩm), được hưởng toàn bộ lợi nhuận sau khi đã trừ đi chi phí vốn đầu tư, công lao động và nộp khoản; được sử dụng hệ thống 1.240 m2 nhà lưới hiện đại trong đó 240 m2 nhà lưới nhân giống là cơ sở vật chất có sẵn của Trung tâm và 1.000 m2 nhà lưới sản xuất hoa lan hồ điệp hình thành từ dự án tại khu công nghệ cao của Trung tâm đặt tại xã T, huyện G, tỉnh Hải Dương; được sử dụng cơ sở vật chất phục vụ khu công nghệ cao và dịch vụ giới thiệu sản phẩm như: nhà giới thiệu sản phẩm, điều hành và nhà nghỉ công nhân, sử dụng có hiệu quả toàn bộ diện tích đất trống xung quanh khi Trung tâm chưa sử dụng đến; được Trung tâm bố trí điểm dịch vụ giới thiệu sản phẩm Hoa lan Hồ điệp tại trụ sở cống phía nam số I Đ, thành phố H.
Tại thời điểm đó, phía Trung tâm xác định hợp đồng 05 giao kết với bà H về bản chất là huy động vốn để thực hiện dự án nên đã sử dụng nguồn tạm ứng từ dự án mua 20.000 cây lan hồ điệp giống với số tiền 200.000.000 đồng theo Hợp đồng số 61/HĐMB/2020 ngày 20/5/2020, phía trung tâm và bà H đã nhận 20.000 cây lan hồ điệp giống để phục vụ dự án; trung tâm chi 50% điện nước năm 2020 số tiền là 52.207.428 đồng; tiền điện nước năm 2021 số tiền 117.572.052 đồng; chi tiền bảo vệ khu công nghệ cao trong thời gian 02 năm thực hiện dự án là 89.720.000 đồng. Tổng tiền Trung tâm đã chi phí liên quan đến hợp đồng 05 số tiền 459.499.480 đồng.
Ngày 24/12/2021, Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh H đã tiến hành thành lập đoàn kiểm tra việc sản xuất hoa lan hồ điệp của dự án “Xây dựng mô hình ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất hoa lan hồ điệp và dưa thơm không dùng đất trên địa bàn tỉnh Hải Dương”. Kết quả có 19.119 cây lan hồ điệp sinh trưởng, phát triển bình thường, tại thời điểm kiểm tra cây lan hồ điệp đã có ngồng hoa, mỗi ngồng có khoảng 8 nụ hữu hiệu và nở từ 1-2 bông hoa/ngồng. Tại biên bản của đoàn kiểm tra đã đề nghị Trung tâm thực hiện quản lý sản xuất và tiêu thụ lan hồ điệp theo đúng quy định của pháp luật, không được thực hiện những thỏa thuận hợp đồng sản xuất, tiêu thụ lan Hồ điệp của dự án trái quy định của pháp luật và việc tiêu thụ hoa lan hồ điệp của dự án phải được hạch toán.
Ngày 27/12/2021 Trung tâm ra thông báo số 55 xác định hợp đồng số 05 giao kết không đúng pháp luật, Trung tâm đề nghị bà H phối hợp chấm dứt thực hiện hợp đồng. Ngày 31/12/2021, Trung tâm đã ban hành quyết định số 102 thành lập tổ chỉ đạo, quản lý, chăm sóc, tiêu thụ hoa lan hồ điệp thuộc dự án nhưng do bà H không đồng ý, đồng thời để tránh thiệt hại đối với sản phẩm hoa lan đang ở thời điểm thu hoạch bán ra thị trường dịp tết nguyên đán nên bà H vẫn tổ chức thu hoạch, tiêu thụ toàn bộ số hoa lan. Theo bảng kê bà H gửi qua email cho Trung tâm kèm theo các bản photocopy hóa đơn bán lẻ thì toàn bộ số tiền bà H bán lan hồ điệp là 1.771.500.000 đồng.
Sau khi bà H khởi kiện, phía Trung tâm xét thấy Hợp đồng số 05 ngày 06/5/2020 đã giao kết với bà H là trái với quy định của pháp luật. Ngày 19/12/2022 Trung tâm đã có yêu cầu phản tố yêu cầu Tòa án tuyên bố Hợp đồng số 05 vô hiệu và trong quá trình giải quyết vụ án, phía Trung tâm đề nghị Tòa án buộc bà H phải nộp lại toàn bộ số tiền bà H bán lan hồ điệp là 1.771.500.000 đồng để Trung tâm tiến hành hạch toán trừ đi các chi phí bà H cũng như Trung tâm đã bỏ ra đối ứng. Phần lợi nhuận còn lại sẽ phân chia cho các bên theo tỷ lệ số tiền các bên đã bỏ ra.
Tại văn bản trình bày ý kiến gửi đến Tòa án, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Sở Khoa học - Công nghệ tỉnh Hải Dương trình bày:
Dự án “Xây dựng mô hình ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất hoa lan Hồ điệp và dưa thơm không dùng đất trên địa bàn tỉnh Hải Dương” là một dự án khoa học và công nghệ thuộc Chương trình “Hỗ trợ ứng dụng, chuyển giao tiến bộ khoa học và công nghệ thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội nông thôn, miền núi, vùng dân tộc thiểu số giai đoạn 2016-2025” để hỗ trợ địa phương, các đơn vị, doanh nghiệp tiếp nhận, chuyển giao các quy trình công nghệ vào địa bàn tỉnh. Dự án do Bộ K - Công nghệ phê duyệt, trực tiếp quản lý và được triển khai thực hiện trên địa bàn tỉnh Hải Dương với mục tiêu: Xây dựng thành công mô hình trồng, xử lý hoa lan Hồ điệp ra hoa theo ý muốn tại chỗ; sản xuất dưa thơm, dưa lê Hàn Quốc ứng dụng công nghệ cao không dùng đất và công nghệ IoT với nội dung chủ yếu là tiếp nhận, chuyển giao các quy trình công nghệ; xây dựng các mô hình; xây dựng nhãn hiệu hàng hóa và đào tạo kỹ thuật viên, tập huấn kỹ thuật cho người dân. Đối với hoa lan: Sản phẩm theo quy trình sản xuất hoa lan Hồ điệp ứng dụng công nghệ cao, điều chỉnh nhiệt độ kích thích phân hóa mầm hoa, điều chỉnh ra hoa theo ý muốn tại chỗ, áp dụng công nghệ IoT trong quản lý sản xuất với mô hình quy mô 1.000 m2, với 20.000 giờ lan Hồ điệp nở hoa vào dịp tết Nguyên đán. Ngày 22/5/2019, Văn phòng Chương trình nông thôn miền núi (nay là Văn phòng các chương trình Khoa học và công nghệ Quốc gia - thuộc Bộ K và Công nghệ) cùng Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh H giao kết với Trung tâm ứng dụng khoa học, công nghệ và khảo nghiệm giống Hợp đồng số 49/2019-NTMN.TW về việc thực hiện dự án thuộc Chương trình hỗ trợ ứng dụng, chuyển giao tiến bộ khoa học và công nghệ thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội nông thôn, miền núi, vùng dân tộc thiểu số giai đoạn 2016-2025. Theo Hợp đồng thì Trung tâm là đơn vị chủ trì thực hiện dự án do Trung ương quản lý, Sở Khoa học và công nghệ chỉ là đơn vị đầu mối giúp UBND tỉnh phối hợp tổ chức chương trình ở địa phương, quản lý nội dung và kinh phí của dự án thuộc nhóm ủy quyền cho địa phương quản lý. Quá trình thực hiện Hợp đồng số 49, việc Trung tâm giao kết Hợp đồng giao khoán thực hiện dự án khoa học và sản xuất và dịch vụ hoa lan hồ điệp số 05/2020-2024/HĐGK-TTƯD ngày 06/5/2020 với bà Phạm Thị Hải H chi đến khi tiến hành thực hiện quyết toán ngân sách Nhà nước năm 2020 tại Trung tâm vào ngày 08/3/2021 Sở Khoa học - Công nghệ mới được biết, Sở Khoa học công nghệ đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo Trung tâm thu hồi, hạch toán tiền bán sản phẩm của dự án là hoa lan Hồ điệp theo đúng quy định. Đối với Hợp đồng giao khoán số 05 Sở Khoa học - Công nghệ xác định trong phần căn cứ của hợp đồng không đề cập đến Hợp đồng số 49, tuy nhiên nội dung sản xuất hoa lan hồ điệp của Hợp đồng số 49 đã được lồng ghép trong nội dung của Hợp đồng số 05. Do vậy việc giao kết hợp đồng số 05 có những nội dung chưa phù hợp với quy định của pháp luật, chưa phù hợp với các điều khoản của Hợp đồng số 49 về quyền tổ chức thực hiện dự án, quyền xử lý và thụ hưởng kết quả của dự án mà trung tâm là tổ chức chủ trì, thời gian giao khoán vượt quá thời gian thực hiện của dự án và việc giao khoán không đảm bảo quy định về hạch toán trong quá trình thực hiện dự án. Mặt khác, hợp đồng 05 không phù hợp với quy định về quản lý, sử dụng tài sản công khi tài sản giao kết chưa có trong đề án cho thuê tài sản công được UBND tỉnh phê duyệt, Trung tâm là đơn vị quản lý tài sản này nhưng không có quyền góp vốn, cho thuê, liên danh, liên kết, kinh doanh khi chưa được cơ quan có thẩm quyền cho phép.
Đối với yêu cầu khởi kiện của bà Phạm Thị Hải H quan điểm của Sở Khoa học và công nghệ đề nghị Tòa án xem xét yêu cầu khởi kiện của bà H đối với Trung tâm theo đúng nội dung khởi kiện mà bà H yêu cầu trên cơ sở quy định của pháp luật. Về các nội dung khác không liên quan đến Hợp đồng 05 cũng như không liên quan đến yêu cầu khởi kiện của bà H thì giữa Trung tâm và Văn phòng C sẽ phối hợp với nhau để giải quyết theo quy định của pháp luật.
Tại văn bản trình bày ý kiến, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Văn Văn phòng chương trình khoa học và Công nghệ trình bày:
Dự án “ Xây dựng mô hình ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất hoa lan hồ điệp và dưa thơm không dùng đất trên địa bàn tỉnh Hải Dương” là dự án thuộc chương trình Nông thôn miền núi, được UBND tỉnh H đề xuất và Bộ K và Công nghệ phê duyệt thực hiện theo Quyết định số 2838/QĐ-BKHCN ngày 28/9/2018 phê duyệt kinh phí dự án do Trung ương quản lý. Dự án do Trung tâm Ứng dụng khoa học công nghệ và Khảo nghiệm giống là tổ chức chủ trì, đã được ký hợp đồng số 49/2019-NTMN.TW ngày 22/5/2019, có thời gian thực hiện từ tháng 5/2019 đến tháng 4/2022 (bao gồm cả thời gian gia hạn thực hiện dự án 06 tháng theo Quyết định số 2294 ngày 15/9/2021 của Bộ trưởng Bộ K1-CN) và nguồn kinh phí thực hiện dự án từ ngân sách sự nghiệp khoa học và C1 cấp là 4.310.000.000 đồng. Quá trình thực hiện, dự án đã được cấp tạm ứng kinh phí thực hiện từ nguồn ngân sách Trung ương 02 lần: Lần 1 cấp tạm ứng 400.000.000 đồng vào ngày 08/10/2019, phần kinh phí này đã được Văn phòng xác nhận tại biên bản ngày 20/5/2020 với số tiền 294.762.800 đồng cho các nội dung như một phần gói thầu số 3 mua nguyên vật liệu xây dựng nhà lưới, nhà máng (số tiền 250.000.000 đồng), công lao động cho chủ nhiệm và thành viên dự án từ tháng 6 đến tháng 12/2019 (số tiền 30.580.000 đồng) và một số nội dung chỉ công tác phí, văn phòng phẩm (số tiền 14.182.800 đồng). Lần 2 cấp tạm ứng 3.000.000.000 đồng ngày 28/5/2020 sau khi Văn phòng tổ chức kiểm tra định kỳ và xác nhận thanh toán 73% kinh phí tạm ứng lần 1 theo quy định. Đối với phần kinh phí này, Trung tâm dự kiến giải ngân số tiền 200.000.000 đồng cho gói thầu số 01 mua cây giống lan hồ điệp, 380.000.000 đồng cho gói thầu số 2 mua hạt giống, phần còn lại của gói thầu số 3 mua nguyên vật liệu xây dựng nhà lưới, nhà máng và một số hoạt động khác. Nội dung công việc đối với lần tạm ứng thứ 2 không được Văn phòng xác nhận thanh toán tạm ứng do không đảm bảo hồ sơ và thiếu phụ lục hợp đồng gia hạn thời gian thực hiện. Đến nay đã hết thời gian thực hiện hợp đồng bao gồm cả thời gian gia hạn nhưng dự án chưa được nghiệm thu ở địa phương, chưa nộp hồ sơ nghiệm thu dự án chính thức ở Trung ương nên chưa thực hiện xử lý tài sản được hình thành thông qua việc triển khai thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ sử dụng vốn ngân sách nhà nước. Văn phòng xác định trách nhiệm thực hiện dự án theo Hợp đồng 49 là của Trung tâm Ứ giống theo quy định của pháp luật và theo Hợp đồng nên toàn bộ kinh phí Văn phòng đã cấp tạm ứng nhưng không được thanh toán số tiền 3.105.237.200 đồng trong đó có dự kiến có 200.000.000 đồng của gói thầu số 01 mua cây giống lan hồ điệp thì Trung tâm phải có nghĩa vụ hoàn trả lại ngân sách Nhà nước theo quy định và Văn phòng cũng đã nhiều lần có văn bản yêu cầu Trung tâm hoàn trả lại ngân sách số tiền này. Việc Trung tâm ký Hợp đồng giao khoán thực hiện dự án khoa học và sản xuất và dịch vụ hoa lan hồ điệp số 05/2020-2024/HĐGKTTƯD ngày 06/5/2020 với cá nhân bà Phạm Thị Hải H là vi phạm quy định nếu Hợp đồng 05 đã ký có nội dung liên quan đến dự án “Xây dựng mô hình ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất hoa lan hồ điệp và dưa thơm không dùng đất trên địa bàn tỉnh Hải Dương”.
Về yêu cầu khởi kiện của bà Phạm Thị Hải H đối với Trung tâm cũng như yêu cầu phản tố của Trung tâm đối với bà H liên quan đến Hợp đồng giao khoán thực hiện dự án khoa học và sản xuất và dịch vụ hoa lan hồ điệp số 05/2020-2024/HĐGK-TTƯD ngày 06/5/2020 mà các bên giao kết. Văn phòng đề nghị Tòa án xem xét đúng phạm vi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố của các bên.
Kiểm sát viên tham gia phiên toà phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Khoản 3 Điều 26; điểm a Khoản 1 Điều 35; điểm a Khoản 1 Điều 39; Khoản 1 Điều 147; Khoản 1 Điều 157; Khoản 1 Điều 165; Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; các Điều 116; 117; 122; 123; 131 và Điều 407 của Bộ luật Dân sự; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH 13 ngày 25/11/2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
- Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Phạm Thị Hải H về việc yêu cầu buộc Trung tâm ứng dụng khoa học, công nghệ và khảo nghiệm giống phải tiếp tục thực hiện Hợp đồng giao khoán thực hiện dự án khoa học và sản xuất và dịch vụ hoa lan hồ điệp số 05/2020-2024/HĐGK-TTƯD ngày 06/5/2020 và kéo dài thêm thời hạn hợp đồng 01 năm.
- Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Phạm Thị Hải H về việc yêu cầu buộc Trung tâm ứng dụng khoa học, công nghệ và khảo nghiệm giống phải bồi thường thiệt hại do đơn phương chấm dứt hợp đồng trong thời gian 3 năm còn lại của hợp đồng liên quan đến sản xuất dịch vụ hoa lan theo cách tích trung bình 20.000 đồng/cây x 20.000 cây/năm x 3 năm với số tiền là 1.200.000.000 đồng.
- Chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn Trung tâm ứng dụng khoa học, công nghệ và khảo nghiệm giống. Tuyên bố Hợp đồng giao khoán thực hiện dự án khoa học và sản xuất và dịch vụ hoa lan hồ điệp số 05/2020-2024/HĐGKTTƯD ngày 06/5/2020 là vô hiệu kể từ thời điểm Hợp đồng được xác lập.
- Buộc bà Phạm Thị Hải H phải trả lại các tài sản thuộc quyền quản lý của Trung tâm ứng dụng khoa học, công nghệ và khảo nghiệm giống gồm 1.000 m2 nhà lưới là cơ sở vật chất kỹ thuật được hình thành từ dự án; 240 m2 nhà lưới hiện đại nhân giống, nhà giới thiệu sản phẩm, nhà điều hành và nhà nghỉ công nhân, diện tích đất trống xung quanh và cơ sở vật chất phục vụ khu công nghệ cao tại khu công nghệ cao tại xã T, huyện G, tỉnh Hải Dương và điểm dịch vụ giới thiệu sản phẩm hoa lan Hồ điệp tại trụ sở của Trung tâm tại I Đ, thành phố H.
- Buộc bà Phạm Thị Hải H phải thực hiện tháo dỡ, di dời các tài sản tự đầu tư tại nhà lưới 1000 m2 gồm: Hệ thống ống nhựa lấy nước mưa, vách ngăn có cách nhiệt và bảo ôn, toàn bộ hệ thống đầu thu và mắt camera bảo vệ tại nhà lưới và nhà giới thiệu sản phẩm, 04 bồn nhựa đựng nước và hệ thống lưới chống côn trùng tại nhà lưới 240 m2.
- Giữ nguyên hiện trạng hệ thống cổng thoát nước và sân trạt nằm trên mương tiêu thoát nước trước cổng và nhà giới thiệu sản phẩm tại khu công nghệ cao tại xã T, huyện G, tỉnh Hải Dương. Trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền liên quan đến quy hoạch, sử dụng hệ thống mương tiêu thoát nước thì Trung tâm ứng dụng khoa học, công nghệ và khảo nghiệm giống sẽ thực hiện phối hợp giải quyết theo quy định của pháp luật.
- Giao cho Trung tâm ứng dụng khoa học, công nghệ và khảo nghiệm giống được sở hữu toàn bộ khay, túi, dây treo nông nghiệp hiện tồn tại tại khu công nghệ cao tại xã T, huyện G, tỉnh Hải Dương.
- Buộc Trung tâm ứng dụng khoa học, công nghệ và khảo nghiệm giống hoàn trả cho bà H số tiền 675.042.784 đồng. Buộc bà Pham Thị Hải H phải hoàn trả cho Trung tâm toàn bộ số tiền đã bỏ ra là 200.000.000 đồng + số tiền bà H phải bồi thường thiệt hại là 152.622.914 đồng + số tiền hoa lợi, lợi tức Trung tâm được hưởng là 316.597.781 đồng; tổng là 669.220.695 đồng. Đối trừ nghĩa vụ, Trung tâm phải trả bà H số tiền 5.822.089 đồng.
- Về án phí và chi phí tố tụng: Buộc các đương sự phải chịu theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thẩm quyền giải quyết: Bà Phạm Thị Hải H khởi kiện vụ án tại Tòa án nhân dân thành phố Hải Dương là Tòa án nơi Trung tâm Ứng dụng khoa học công nghệ và Khảo nghiệm giống có trụ sở và Tòa án nhân dân thành phố Hải Dương đã thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại điểm a Khoản 1 Điều 35 và điểm a Khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và yêu cầu phản tố của bị đơn:
Bà Phạm Thị Hải H khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc Trung tâm Ứ giống phải tiếp tục thực hiện Hợp đồng giao khoán thực hiện dự án khoa học và sản xuất và dịch vụ hoa lan hồ điệp số 05/2020-2024/HĐGK-TTƯD ngày 06/5/2020 mà các bên giao kết và kéo dài thêm thời hạn hợp đồng 01 năm do Trung tâm gây khó khăn không cho thực hiện hợp đồng năm 2022. Trường hợp Trung tâm đơn phương chấm dứt hợp đồng thì phải thực hiện nghĩa vụ bồi thường thiệt hại trong thời gian 3 năm còn lại của hợp đồng liên quan đến sản xuất dịch vụ hoa lan theo cách tích trung bình 20.000 đồng/cây x 20.000 cây/năm x 3 năm với số tiền là 1.200.000.000 đồng. Phía bị đơn Trung tâm Ứng dụng khoa học công nghệ và Khảo nghiệm giống có yêu cầu phản tố đề nghị Tòa án tuyên bố Hợp đồng giao khoán thực hiện dự án khoa học và sản xuất và dịch vụ hoa lan hồ điệp số 05/2020-2024/HĐGK-TTƯD ngày 06/5/2020 mà các bên giao kết là vô hiệu, yêu cầu bà H phải nộp lại toàn bộ số tiền bà H bán lan hồ điệp là 1.771.500.000 đồng để Trung tâm tiến hành hạch toán trừ đi chi phí của các bên đã bỏ ra và phân chia lợi nhuận cho các bên theo quy định. Vì vậy, để xem xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và yêu cầu phản tố của bị đơn, Tòa án phải xem xét tính hợp pháp của Hợp đồng giao khoán thực hiện dự án khoa học và sản xuất và dịch vụ hoa lan hồ điệp số 05/2020-2024/HĐGK-TTƯD ngày 06/5/2020 theo quy định của pháp luật.
[2.1] Về tính hợp pháp của Hợp đồng giao khoán thực hiện dự án khoa học và sản xuất và dịch vụ hoa lan hồ điệp số 05/2020-2024/HĐGK-TTƯD ngày 06/5/2020:
Dự án “Xây dựng mô hình ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất hoa lan hồ điệp và dưa thơm không dùng đất trên địa bàn tỉnh Hải Dương” là dự án thuộc Chương trình hỗ trợ ứng dụng, chuyển giao tiến bộ khoa học và công nghệ thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội nông thôn, miền núi, vùng dân tộc thiểu số giai đoạn 2016-2025 được Văn phòng Chương trình nông thôn miền núi (nay là Văn phòng các chương trình Khoa học và công nghệ Quốc gia - thuộc Bộ K và Công nghệ) cùng Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh H giao kết với Trung tâm ứng dụng khoa học, công nghệ và khảo nghiệm giống tại Hợp đồng số 49/2019-NTMN.TW ngày 22/5/2019. Theo hợp đồng thì Trung tâm Ứ giống là đơn vị tổ chức chủ trì dự án phải trực tiếp thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo Khoản 2 Điều 4 của Hợp đồng trong việc phối hợp với tổ chức hỗ trợ ứng dụng công nghệ; sử dụng kinh phí; đấu thầu mua sắm máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu và dịch vụ của dự án, cung cấp đầy đủ thông tin cho các cơ quan quản lý trong việc giám sát, kiểm tra, thanh tra đối với dự án; xây dựng báo cáo kết quả triển khai thực hiện dự án, phối hợp tổ chức nghiệm thu mô hình dự án, chuẩn bị hồ sơ gửi cấp có thẩm quyền nghiệm thu khi kết thúc dự án; có trách nhiệm quản lý, sử dụng tài sản được mua sắm bằng ngân sách nhà nước cho tới khi có quyết định xử lý tài sản đó của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; cùng tham gia thanh lý hợp đồng.
Sau khi giao kết hợp đồng số 49, Trung tâm cùng bà H giao kết Hợp đồng giao khoán thực hiện dự án khoa học và sản xuất và dịch vụ hoa lan hồ điệp số 05/2020-2024/HĐGK-TTƯD ngày 06/5/2020 với hình thức Trung tâm khoán gọn cho bà H để thu mức tiền giao khoán hàng năm theo Hợp đồng.
Theo nội dung Hợp đồng 05 Hội đồng xét xử thấy rằng:
Mô hình ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất hoa lan Hồ điệp là một mô hình trong tổng thể của dự án bao gồm sản xuất hoa lan Hồ điệp và dưa thơm không dùng đất trên địa bàn tỉnh Hải Dương theo Hợp đồng 49. Trung tâm ký hợp đồng khoán gọn cho bà H với tư cách cá nhân trong thời gian 05 năm (đến tháng 3/2025) để giao khoán cho bà H thực hiện mô hình ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất hoa lan Hồ điệp trong thời gian thực hiện dự án (đến tháng 4/2022) và thực hiện khoán dịch vụ sau khi dự án kết thúc với quyền lợi bà H được hưởng theo Hợp đồng 05 là được sử dụng toàn bộ cơ sở vật chất 1.000 m² nhà lưới là cơ sở vật chất kỹ thuật được hình thành từ dự án tại khu công nghệ cao tại xã T, huyện G, tỉnh Hải Dương; được chủ động hoàn toàn trong tổ chức sản xuất và tiêu thụ sản với đối với hoa lan thương phẩm; được hưởng toàn bộ lợi nhuận sau khi đã trừ chi phí vốn đầu tư, công lao động và nộp khoản. Ngoài ra, bà H còn được sử dụng 240 m² nhà lưới hiện đại nhân giống, nhà giới thiệu sản phẩm, nhà điều hành và nhà nghỉ công nhân tại khu công nghệ cao tại xã T, huyện G và điểm dịch vụ giới thiệu sản phẩm hoa lan Hồ điệp tại trụ sở của Trung tâm tại thành phố H.
Với tư cách là đơn vị tổ chức chủ trì dự án nhưng trong thời gian thực hiện dự án Trung tâm đã không trực tiếp xây dựng và tổ chức thực hiện mà giao khoán cho bà H để bà H thực hiện xây dựng mô hình ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất hoa lan Hồ điệp, cho bà H được sử dụng cơ sở vật chất kỹ thuật 1.000 m² nhà lưới hình thành từ dự án và đặc biệt cho bà H được tổ chức sản xuất, tiêu thụ toàn bộ và hướng toàn bộ lợi nhuận sản phẩm hình thành từ dự án sau khi trừ chi phí và nộp tiền giao khoán về Trung tâm là vi phạm về quyền và nghĩa vụ của bên tổ chức, chủ trì dự án quy định tại Khoản 2 Điều 4 của Hợp đồng 49, vi phạm Khoản 3 Điều 2, điểm c Khoản 1 Điều 6 và Điều 12 Thông tư 07 ngày 22/4/2016 của Bộ K và Công nghệ quy định quản lý Chương trình Hỗ trợ ứng dụng, chuyển giao tiến bộ khoa học và công nghệ thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội nông thôn, miền núi, vùng dân tộc thiểu số giai đoạn 2016-2025. Đối với phần dịch vụ nội dung Trung tâm cho bà H được sử dụng cơ sở vật chất kỹ thuật nhà lưới 1.000 m² trong thời gian còn lại của Hợp đồng 05 sau khi hết thời gian thực hiện dự án trong khi chưa có quyết định xử lý tài sản này của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền là vi phạm điểm g Khoản 2 Điều 4 của Hợp đồng 49 và Khoản 9 Điều 12 Thông tư 07; sử dụng 240 m² nhà lưới hiện đại nhân giống, nhà giới thiệu sản phẩm, nhà điều hành và nhà nghỉ công nhân tại khu công nghệ cao và điểm dịch vụ giới thiệu sản phẩm hoa lan Hồ điệp tại trụ sở của Trung tâm tại thành phố H trong khi không có đề án, không cấp có thẩm quyền phê duyệt là vi phạm định về quản lý, sử dụng tài sản công.
Với phân tích nêu trên có đủ cơ sở để xác định phía bị đơn là Trung tâm không đảm bảo về mặt chủ thể, nội dung khi tham gia giao kết hợp đồng giao khoán vì vi phạm điều cấm của luật. Đối với bà Phạm Thị Hải H mặc dù khi giao kết hợp đồng giao khoán với tư cách cá nhân nhưng tại Hợp đồng giao khoán liên quan trực tiếp đến mô hình ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất hoa lan Hồ điệp là một mô hình trong tổng thể của dự án bao gồm sản xuất hoa lan Hồ điệp và dưa thơm không dùng đất trên địa bàn tỉnh Hải Dương mà bà H là Chủ nhiệm đề tài. Với vai trò là Chủ nhiệm đề tài bà H buộc phải biết dự án phải do Trung tâm là đơn vị chủ trì thực hiện, quản lý và sử dụng kinh phí của dự án, quản lý sử dụng cơ sở vật chất kỹ thuật hình thành từ dự án và đặc biệt quản lý, thụ hưởng sản phẩm có được từ dự án. Vì vậy trong trường hợp cụ thể này, các bên đều biết và đều có lỗi khi giao kết và thực hiện hợp đồng trong khi Hợp đồng vi phạm điều cấm của luật về chủ thể, cũng như điều cấm của luật về mục đích, nội dung của hợp đồng. Theo quy định tại Điều 117, 122 và Điều 123 Bộ luật Dân sự thì giao dịch dân sự các bên xác lập bằng Hợp đồng giao khoán thực hiện dự án khoa học và sản xuất và dịch vụ hoa lan hồ điệp số 05/2020-2024/HĐGK-TTƯD ngày 06/5/2020 là giao dịch dân sự vô hiệu toàn bộ, không được pháp luật thừa nhận.
[2.2] Như đã nhận định tại phần [2.1] có đủ căn cứ để xác định giao dịch dân sự các bên xác lập bằng Hợp đồng giao khoán thực hiện dự án khoa học và sản xuất và dịch vụ hoa lan hồ điệp số 05/2020-2024/HĐGK-TTƯD ngày 06/5/2020 là giao dịch dân sự vô hiệu toàn bộ. Theo quy định tại Điều 131 Bộ luật Dân sự thì giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập, khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận, bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường. Từ quy định trên thấy rằng không có đủ cơ sở để chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Phạm Thị Hải H về việc yêu cầu Trung tâm tiếp tục thực hiện Hợp đồng 05 theo thời hạn, gia hạn thêm 01 năm hoặc bồi thường thiệt hại nếu thời gian 03 năm còn lại của Hợp đồng không được tiếp tục với số tiền 1,2 tỷ đồng.
[2.3] Do không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn nên yêu cầu phản tố của bị đơn yêu cầu tuyên bố Hợp đồng giao khoán thực hiện dự án khoa học và sản xuất và dịch vụ hoa lan hồ điệp số 05/2020-2024/HĐGK-TTƯD ngày 06/5/2020 là vô hiệu được chấp nhận để giải quyết hậu quả của Hợp đồng vô hiệu. Hội đồng xét xử thấy rằng:
[2.3.1] Phía nguyên đơn trong quá trình thực hiện Hợp đồng 05: Ngày 21/5/2020, Trung tâm và H tiếp nhận 20.000 cây lan hồ điệp giống để bà H thực hiện chăm sóc. Ngày 28/8/2020 bà H nộp tiền đối ứng mua khay, bầu trồng lan về trung tâm số tiền 34.400.000 đồng theo hóa đơn bán hàng ngày 30/5/2020 và phiếu thu ngày 28/8/2020; ngày 22/10/2020 bà H nộp tiền đối ứng tiền mua phân bón về trung tâm số tiền 47.100.000 đồng theo hóa đơn bán hàng ngày 26/5/2020 và phiếu thu ngày 22/10/2020; ngày 26/11/2020 bà H nộp tiền đối ứng dự án mua vật tư phục vụ mô hình sản xuất hoa lan hồ điệp (khay, bầu) về trung tâm số tiền là 78.000.000 đồng theo hóa đơn bán hàng ngày 28/9/2020 và phiếu thu ngày 26/11/2020; ngày 15/12/2020 bà H nộp tiền đối ứng mua phân bón về trung tâm số tiền 79.900.000 đồng theo hóa đơn bán hàng ngày 14/10/2020 và phiếu thu ngày 15/12/2020; tiền điện, nước năm 2020 bà H nộp về trung tâm số tiền 51.992.784 đồng; ngày 11/5/2021 bà H nộp tiền đối ứng dự án mua vật tư thực hiện dự án công nghệ cao (khay, bầu) về trung tâm số tiền là 92.250.000 đồng theo hóa đơn bán hàng và phiếu thu ngày 11/5/2021; ngày 18/5/2021 bà H nộp tiền đối ứng mua vật tư, phân bón trồng lan về trung tâm số tiền 61.400.000 đồng theo hóa đơn bán hàng và phiếu thu ngày 18/5/2021; ngày 17/02/2022 bà H nộp số tiền tạm thu tiền điện nước năm 2021 của tổ sản xuất hoa lan theo hợp đồng 05 số tiền 100.000.000 đồng theo phiếu thu ngày 17/2/2022 và nộp tiền giao khoán lan năm 2021 số tiền 130.000.000 đồng. Tổng số tiền bà H đã nộp đối ứng về trung tâm là 675.042.784 đồng. Do vậy, cần buộc Trung tâm phải hoàn trả cho bà H toàn bộ số tiền này.
[2.3.2] Phía bị đơn trong quá trình thực hiện Hợp đồng 05: Đã sử dụng nguồn tạm ứng từ dự án mua 20.000 cây lan Hồ điệp giống với số tiền 200.000.000 đồng. Do vậy, cần buộc bà H phải hoàn trả cho Trung tâm toàn bộ 20.000 cây hoa lan Hồ điệp giống trị giá bằng tiền là 200.000.000 đồng.
[2.3.3] Do Hợp đồng 05 vô hiệu nên buộc bà H phải trả lại các tài sản được Trung tâm giao như 1.000 m2 nhà lưới là cơ sở vật chất kỹ thuật được hình thành từ dự án; 240 m2 nhà lưới hiện đại nhân giống, nhà giới thiệu sản phẩm, nhà điều hành, nhà nghỉ công nhân, toàn bộ diện tích đất trống xung quanh tại khu công nghệ cao tại xã T, huyện G, tỉnh Hải Dương và điểm dịch vụ giới thiệu sản phẩm hoa lan Hồ điệp tại trụ sở của Trung tâm tại I Đ, thành phố H.
[2.3.4] Đối với toàn bộ các tài sản bà H tự hình thành tại nhà lưới 1000 m2 như: Lắp đặt thêm hệ thống ống nhựa lấy nước mưa, dựng vách ngăn có cách nhiệt và bảo ôn chia nhà lưới thành hai khoang, lắp đặt hệ thống camera bảo vệ tại nhà lưới và nhà giới thiệu sản phẩm, mua 04 bồn nhựa đựng nước. Đối với nhà lưới 240 m² bà H lắp đặt thêm hệ thống lưới chống côn trùng. Đối với phần mương tiêu nước phía trước cổng và nhà giới thiệu sản phẩm bà H đã đầu tư đặt cổng thoát nước và trạt bê tông. Hội đồng xét xử thấy rằng các hạng mục này mặc dù bà H có đơn đề nghị và Trung tâm đồng ý về mặt chủ trương nhưng không liên quan và không phải là phụ lục của Hợp đồng 05 nên đây không phải là thiệt hại của bà H, việc bà H lắp đặt thêm các hạng mục tại nhà lưới làm thay đổi kết cấu, thiết kế, tính năng sử dụng của công trình phục vụ dự án khoa học. Việc bà H đặt cổng thoát nước và trạt sân bê tông phía trước nhà giới thiệu sản phẩm nằm trên phần mương tiêu thoát nước do nhà nước quản lý mà không thuộc đất do Trung tâm quản lý. Do bà H phải trả lại tài sản được Trung tâm giao theo Hợp đồng 05 nên đối với các tài sản bà H lắp đặt thêm tại các nhà lưới như vách ngăn, bảo ôn, lưới chống côn trùng, hệ thống camera, bồn nhựa đựng nước, hệ thống ống nhựa lấy nước mưa là các tài sản di dời được nên cần buộc bà H tháo dỡ, di dời toàn bộ để trả lại nguyên trạng công trình nhà lưới cho Trung tâm. Riêng đối với hệ thống cổng thoát nước và sân trạt cần giữ nguyên hiện trạng và trong trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền liên quan đến quy hoạch, sử dụng hệ thống mương tiêu thoát nước thì Trung tâm sẽ thực hiện phối hợp giải quyết theo quy định của pháp luật.
[2.3.5] Đối với toàn bộ khay, túi, dây treo nông nghiệp hiện tồn tại khu công nghệ cao là tài sản do bà H mua để thực hiện giao khoán theo Hợp đồng 05. Số tiền mua các tài sản này bà H đã nộp tiền về Trung tâm và do Hợp đồng 05 vô hiệu nên Trung tâm phải hoàn trả cho bà H toàn bộ số tiền bà H đã nộp nên toàn bộ khay, túi, dây treo nông nghiệp hiện tồn tại khu công nghệ cao cần giao cho phía Trung tâm quản lý, sử dụng.
[2.3.6] Về xác định thiệt hại phát sinh theo Hợp đồng 05: Trong quá trình tiêu thụ sản phẩm hoa lan Hồ điệp, bà H đã phải đầu tư tiền chậu để trồng lan Hồ điệp thành phẩm bán ra thị trường theo thống kê là 10.070.000 đồng; chi phí số tiền đã nộp đối ứng về Trung tâm là 675.042.784 đồng và trả tiền công lao động là 127.000.000 đồng, tổng là 812.112.784 đồng. Bà H bán lan thu được 1.771.500.000 đồng nên bà H không bị thiệt hại. Thiệt hại của Trung tâm là nhà lưới 240 m² là tài sản của Trung tâm bà H nhận khoán về phần dịch vụ theo Hợp đồng 05 trong thời gian thực hiện dự án từ tháng 5/2020 đến tháng 5/2022, Trung tâm cung cấp theo quy định thì giá trị tài sản cố định đối với nhà lưới 240 m² là 417.075.772 đồng, khấu hao 6,67%/năm là 27.818.954 đồng. Giá trị khấu hao mà Trung tâm phải gánh chịu trong thời gian bà H sử dụng là 27.818.954 đồng/12 tháng*22 tháng = 51.001.416 đồng, trung tâm chi 50% điện nước năm 2020 số tiền là 52.207.428 đồng; tiền điện nước năm 2021 số tiền 117.572.052 đồng; chi tiền bảo vệ khu công nghệ cao trong thời gian 02 năm thực hiện dự án là 89.720.000 đồng, tiền điện nước năm 2020-2021 do Trung tâm phải hoàn trả bà H nhưng điện nước đã tiêu thụ Trung tâm vẫn phải nộp là 51.992.784 đồng và 100.000.000 đồng. Như vậy, tổng thiệt hại của Trung tâm liên quan đến Hợp đồng 05 vô hiệu là 462.493.680 đồng. Như nhận định ở phần [2.1] thì Hợp đồng 05 vô hiệu và các bên tham gia giao kết đều có lỗi, lỗi chính thuộc về Trung tâm, do vậy đối với thiệt hại của Trung tâm bà H phải chịu một phần. Hội đồng xét xử buộc bà H phải bồi thường thiệt hại cho Trung tâm 33% giá trị thiệt hại là 152.622.914 đồng. Đối với các tài sản gồm nhà lưới 1000 m2 do chưa được quyết toán và xử lý tài sản hình thành từ dự án, nhà giới thiệu sản phẩm, nhà điều hành, nhà nghỉ công nhân, toàn bộ diện tích đất trống xung quanh tại khu công nghệ cao tại xã T, huyện G, tỉnh Hải Dương và điểm dịch vụ giới thiệu sản phẩm hoa lan Hồ điệp tại trụ sở của Trung tâm tại I Đ, thành phố H bà H sử dụng không thường xuyên liên tục nên không đủ cơ sở để xác định khấu hao đối với các tài sản này để xác định thiệt hại theo đề nghị của Trung tâm.
[2.3.7] Về hoa lợi, lợi tức bà H thu được từ Hợp đồng 05: Thấy rằng, bà H và Trung tâm xác định với nhau trên cơ sở thừa nhận toàn bộ số lan Hồ điệp thành phẩm bà H đã bán ra thị trường với tổng số tiền 1.771.500.000 đồng và bà H đang là người quản lý toàn bộ số tiền này theo thỏa thuận tại Hợp đồng 05. Để thu được số tiền trên, bà H đã bỏ tiền chi phí các khoản tại mục [2.3.6] là 812.112.784 đồng nên hoa lợi, lợi tức bà H thu được là 959.387.216 đồng. Như đã nhận định ở phần [2.1] thì Hợp đồng 05 vô hiệu và các bên tham gia giao kết đều có lỗi, bản thân bà H không phải là người ngay tình trong việc thu hoa lợi, lợi tức từ hợp đồng vô hiệu, tuy nhiên để đảm bảo quyền lợi của các bên Hội đồng xét xử sẽ xem xét phần hoa lợi, lợi tức thu được từ Hợp đồng 05 sau khi đối trừ các khoản mà bà H đã bỏ ra. Căn cứ lỗi của các bên, Hội đồng xét xử chia cho bà H hưởng 67% là 642.789.434 đồng, chia cho Trung tâm hướng là 316.597.781 đồng.
[2.3.8] Tổng số tiền bà H hoàn trả, bồi thường thiệt hại, chia hoa lợi cho Trung tâm là 200.000.000 đồng + 152.622.914 đồng + 316.597.781 đồng = 669.220.695 đồng. Đối trừ nghĩa vụ, Trung tâm phải trả cho bà H số tiền 675.042.784 đồng - 669.220.695 đồng = 5.822.089 đồng.
[3] Về các vấn đề khác: Trong vụ án này, Tòa án chỉ xem xét giải quyết trong phạm vi yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và yêu cầu phản tố của bị đơn. Do vậy, nội dung liên quan đến hợp đồng số 49/2019-NTMN.TW ngày 22/5/2019 giữa Văn phòng Chương trình nông thôn miền núi (nay là Văn phòng các chương trình Khoa học và công nghệ Quốc gia - thuộc Bộ K và Công nghệ) cùng Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh H giao kết với Trung tâm ứng dụng khoa học, công nghệ và khảo nghiệm giống nếu có tranh chấp sẽ xem xét giải quyết bằng một vụ kiện khác.
[4] Về án phí, chi phí tố tụng: Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn không được chấp nhận nên phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu không được chấp nhận. Yêu cầu phản tố của bị đơn được chấp nhận nên không phải chịu án phí sơ thẩm dân sự. Bị đơn phải chịu án phí đối với phần nghĩa vụ của mình khi xử lý hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu. Do yêu cầu của nguyên đơn không được chấp nhận nên phải chịu toàn bộ chi phí xem xét thẩm định tại chỗ và định giá tài sản.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng: Khoản 3 Điều 26; điểm a Khoản 1 Điều 35; điểm a Khoản 1 Điều 39; Khoản 1 Điều 147; Khoản 1 Điều 157; Khoản 1 Điều 165; Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; các Điều 116; 117; 122; 123; 131 và Điều 407 của Bộ luật Dân sự; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH 13 ngày 25/11/2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Phạm Thị Hải H về việc yêu cầu buộc Trung tâm ứng dụng khoa học, công nghệ và khảo nghiệm giống phải tiếp tục thực hiện Hợp đồng giao khoán thực hiện dự án khoa học và sản xuất và dịch vụ hoa lan hồ điệp số 05/2020-2024/HĐGK-TTƯD ngày 06/5/2020 và kéo dài thêm thời hạn hợp đồng 01 năm.
2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Phạm Thị Hải H về việc yêu cầu buộc Trung tâm ứng dụng khoa học, công nghệ và khảo nghiệm giống phải bồi thường thiệt hại do đơn phương chấm dứt hợp đồng trong thời gian 3 năm còn lại của hợp đồng liên quan đến sản xuất dịch vụ hoa lan theo cách tích trung bình 20.000 đồng/cây x 20.000 cây/năm x 3 năm với số tiền là 1.200.000.000 đồng.
3. Chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn Trung tâm ứng dụng khoa học, công nghệ và khảo nghiệm giống. Tuyên bố Hợp đồng giao khoán thực hiện dự án khoa học và sản xuất và dịch vụ hoa lan hồ điệp số 05/2020-2024/HĐGKTTƯD ngày 06/5/2020 là vô hiệu kể từ thời điểm Hợp đồng được xác lập.
4. Buộc bà Phạm Thị Hải H phải trả lại các tài sản thuộc quyền quản lý của Trung tâm ứng dụng khoa học, công nghệ và khảo nghiệm giống gồm 1.000 m2 nhà lưới là cơ sở vật chất kỹ thuật được hình thành từ dự án; 240 m2 nhà lưới hiện đại nhân giống, nhà giới thiệu sản phẩm, nhà điều hành và nhà nghỉ công nhân, diện tích đất trống xung quanh và cơ sở vật chất phục vụ khu công nghệ cao tại khu công nghệ cao tại xã T, huyện G, tỉnh Hải Dương và điểm dịch vụ giới thiệu sản phẩm hoa lan Hồ điệp tại trụ sở của Trung tâm tại I Đ, thành phố H (là các tài sản được mô tả tại khoản 3 Điều 1 Hợp đồng 05).
5. Buộc bà Phạm Thị Hải H phải thực hiện tháo dỡ, di dời các tài sản tự đầu tư tại nhà lưới 1000 m2 gồm: Hệ thống ống nhựa lấy nước mưa, vách ngăn có cách nhiệt và bảo ôn, toàn bộ hệ thống đầu thu và mắt camera bảo vệ tại nhà lưới và nhà giới thiệu sản phẩm, 04 bồn nhựa đựng nước và hệ thống lưới chống côn trùng tại nhà lưới 240 m2.
6. Giữ nguyên hiện trạng hệ thống cổng thoát nước và sân trạt nằm trên mương tiêu thoát nước trước cổng và nhà giới thiệu sản phẩm tại khu công nghệ cao tại xã T, huyện G, tỉnh Hải Dương. Trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền liên quan đến quy hoạch, sử dụng hệ thống mương tiêu thoát nước thì Trung tâm ứng dụng khoa học, công nghệ và khảo nghiệm giống sẽ thực hiện phối hợp giải quyết theo quy định của pháp luật.
7. Giao cho Trung tâm ứng dụng khoa học, công nghệ và khảo nghiệm giống được sở hữu toàn bộ khay, túi, dây treo nông nghiệp hiện tồn tại tại khu công nghệ cao tại xã T, huyện G, tỉnh Hải Dương.
8. Buộc Trung tâm ứng dụng khoa học, công nghệ và khảo nghiệm giống hoàn trả cho bà H số tiền 675.042.784 đồng. Buộc bà Phạm Thị Hải H phải hoàn trả cho Trung tâm toàn bộ số tiền đã bỏ ra là 200.000.000 đồng + số tiền bà H phải bồi thường thiệt hại là 152.622.914 đồng + số tiền hoa lợi, lợi tức Trung tâm được hưởng là 316.597.781 đồng; tổng là 669.220.695 đồng. Đối trừ nghĩa vụ, Trung tâm phải trả bà H số tiền 5.822.089 đồng.
Sau khi bản án có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày bà Phạm Thị Hải H có đơn yêu cầu thi hành án đối với khoản tiền trên, nếu Trung tâm ứng dụng khoa học, công nghệ và khảo nghiệm giống chậm trả tiền thì phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả theo quy định tại Khoản 1 Điều 357 Bộ luật Dân sự. Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo thoả thuận của các bên nhưng không được vượt quá mức lãi suất được quy định tại Khoản 1 Điều 468 Bộ luật Dân sự; nếu không có thoả thuận thì thực hiện theo quy định tại Khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự.
9. Về án phí, chi phí tố tụng: Bà Phạm Thị Hải H phải chịu 300.000 đồng án phí đối với yêu cầu tiếp tục thực hiện Hợp đồng không được chấp nhận. Được trừ vào số tiền 24.000.000 đồng bà H đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai thu tạm ứng án phí lệ phí Tòa án số AA/2021/0001328 ngày 09/11/2022. Hoàn trả bà H số tiền 23.700.000 đồng. Trung tâm ứng dụng khoa học, công nghệ và khảo nghiệm giống phải chịu 300.000 đồng phí dân sự sơ thẩm khi giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu được trừ vào số tiền 300.000 đồng Trung tâm đã nộp tạm ứng án phí (do bà Nguyễn Thị H1 nộp thay) theo biên lai thu tạm ứng án phí lệ phí Tòa án số AA/2021/0002495 ngày 27/12/2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Hải Dương.
Bà Phạm Thị Hải H phải chịu 300.000 đồng chi phí thẩm định tại chỗ và 1.500.000 đồng chi phí định giá tài sản (đã thực hiện xong).
10. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo bản án, những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo về phần có liên quan đến quyền lợi của mình. Thời hạn kháng cáo của nguyên đơn, bị đơn và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt khi tuyên án thời hạn là 15 ngày kể từ nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu yêu cầu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự
Bản án về tranh chấp yêu cầu tiếp tục thực hiện hợp đồng, gia hạn thời hạn thực hiện hợp đồng, đòi bồi thường thiệt hại và yêu cầu phản tố yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu số 12/2024/DS-ST
| Số hiệu: | 12/2024/DS-ST |
| Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
| Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Hải Dương - Hải Dương |
| Lĩnh vực: | Dân sự |
| Ngày ban hành: | 19/04/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về