TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TÂY NINH
BẢN ÁN 448/2024/DS-PT NGÀY 09/09/2024 VỀ TRANH CHẤP YÊU CẦU HỦY HỢP ĐỒNG ĐẶT CỌC, HỢP ĐỒNG ỦY QUYỀN
Ngày 09 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 333/2024/TLPT-DS ngày 21 tháng 8 năm 2024 v/v “Tranh chấp về quyền sử dụng đất”; do Bản án Dân sự sơ thẩm số 135/2024/DS-ST ngày 12 tháng 7 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh bị kháng cáo, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 416/2024/QĐ-PT ngày 22 tháng 8 năm 2024, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Anh Tiêu Đình N, sinh năm 1991; cư trú tại: Tổ D, khu phố C, thị trấn T, huyện T, tỉnh Tây Ninh, vắng mặt.
Người đại diện theo ủy quyền: Anh Lê Vĩnh T, sinh năm 1996; cư trú tại: A, ấp B, xã B, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh, có mặt.
Bị đơn: Chị Nguyễn Thị Ngọc G, sinh năm 1996; cư trú tại: Khu phố B, thị trấn T, tỉnh Tây Ninh, có mặt.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Tòa án không triệu tập.
Anh Phạm Khánh V, sinh năm 1986 và chị Nguyễn Thị Tuyết V1, sinh năm 1987; cùng cư trú tại: Ấp T, xã T, huyện T, tỉnh Tây Ninh.
Người kháng cáo: Chị Nguyễn Thị Ngọc G
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ngày 18/01/2024 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn anh Tiêu Đình N và người đại diện hợp pháp của anh Tiêu Đình N là anh Lê Vĩnh T trình bày:
Vào ngày 03/4/2023 anh N bán cho chị G phần đất diện tích 1.007,4m², thửa đất 463, tờ bản đồ số 42, đất trồng cây lâu năm, toạ lạc tại ấp H, xã T, huyện T, tỉnh Tây Ninh đứng tên Tiêu Đình N với giá 800.000.000 đồng. Hai bên có làm hợp đồng đặt cọc nội dung chị G giao cho anh 100.000.000 đồng, 700.000.000 đồng còn lại hẹn 4 tháng sau sẽ giao đủ. Cùng ngày 03/4/2023, anh ký cho chị G hợp đồng ủy quyền cho chị G toàn quyền quyết định phần đất trên. Lý do chị G nói là nếu có khách mua thì chị G ký bán luôn rồi sau đó sẽ giao lại tiền cho anh.
Sau 04 tháng anh có gọi chị G đi ký hợp đồng chuyển nhượng để trả tiền thì không liên lạc được với chị G. Anh làm đơn khởi kiện tại Tòa án nhân dân huyện Tân Châu vào tháng 8/2023 nhưng rút đơn khởi kiện vào ngày 26/9/2023 vì chị G hẹn thoả thuận với anh.
Sau đó chị G không thực hiện thoả thuận nên ngày 18/10/2023 anh tiếp tục khởi kiện và chị G lại thoả thuận sẽ trả tiền cho anh. Ngày 25/12/2023 chị G và anh ký lại hợp đồng đặt cọc mới, thoả thuận anh sẽ rút đơn khởi kiện để cho anh V, chị V1 làm thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất; chị G ký công chứng cho anh phần đất tại thửa đất số 794; tờ bản đồ số 49, tại ấp D, xã S, huyện T, tỉnh Tây Ninh.
Chị G phải giao tiền cho anh theo các tiến độ: Ngày 03/4/2023 giao 100.000.000 đồng. Ngày 25/12/2023 giao 100.000.000 đồng. Ngày 25/01/2024 giao cho 200.000.000 đồng. Ngày 06/3/2024 giao cho 200.000.000 đồng. Ngày 06/4/2024 giao 200.000.000 đồng. Ngày 25/12/2023, chị G giao cho anh 80.000.000 đồng bằng hình thức chuyển khoản nên anh lại tiếp tục rút đơn khởi kiện vào ngày 04/01/2024. Các nội dung thoả thuận trên chị G chỉ thực hiện được một thoả thuận là giao cho anh 180.000.000 đồng. Do chị G vi phạm nên ngày 02/2/2024 anh tiếp tục khởi kiện.
Nay anh yêu cầu hủy hợp đồng đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất thửa đất số 463, tờ bản đồ số 42, địa chỉ: Ấp H, xã T, huyện T, tỉnh Tây Ninh lập ngày 03/4/2023 và ngày 25/12/2023 giữa anh và chị G.
Hủy hợp đồng ủy quyền được văn phòng C, tỉnh Tây Ninh chứng nhận số 001754, quyển số 04/2023/TP/CC-SCC/HĐGD ngày 03/4/2023 giữa anh và chị G.
Hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được Văn phòng C, tỉnh Tây Ninh chứng nhận số 001755, quyển số 04/2023/TP/CC-SCC/HĐGD ngày 03/4/2023 giữa chị G và anh V, chị V1. Trường hợp Tòa án tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa chị G và anh V, chị V1 vô hiệu anh yêu cầu giải quyết hậu quả của hợp đồng theo quy định của pháp luật.
Tại biên bản lấy lời khai ngày 08/4/2024 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn chị Nguyễn Thị Ngọc G trình bày:
Vào ngày 02/4/2023 anh Tiêu Đình N và anh Nhan Thanh D có nhờ chị bán giúp một phần đất diện tích 1.007,4m², thửa đất số 463; tờ bản đồ số 42; toạ lạc tại ấp H, xã T, huyện T, tỉnh Tây Ninh với giá 800.000.000 đồng nhưng chị không bán được.
Ngày 03/4/2023, anh N và anh D thoả thuận bán cho chị phần đất trên, ký hợp đồng đặt cọc ngày 03/4/2023, giá trị hợp đồng chuyển nhượng là 800.000.000 đồng. Chị đã giao cọc cho anh N 100.000.000 đồng, 700.000.000 đồng còn lại hẹn trong thời hạn 140 ngày sẽ giao đủ, các bên có làm hợp đồng đặt cọc do chị viết và các bên cùng ký tên.
Ngày 03/4/2023, anh N ký với chị một hợp đồng ủy quyền để cho chị được toàn quyền quyết định đối với phần đất trên.
Ngày 03/4/2023, chị và anh V có ký hợp đồng thế chấp viết tay, nội dung thể hiện chị thế chấp cho anh V phần đất diện tích 1.007,4m², thửa đất số 463; tờ bản đồ số 42; toạ lạc tại ấp H, xã T, huyện T, tỉnh Tây Ninh để vay 350.000.000 đồng, lãi suất 4% một tháng. Ngày 03/4/2023 chị và anh V, chị V1 có ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với thửa đất nêu trên. Hợp đồng chuyển nhượng giữa chị và anh V, chị V1 là không có thật, nhằm mục đích để che giấu hợp đồng thế chấp vay tài sản. Chị và anh V thoả thuận quá thời hạn 1,5 tháng nếu chị không đóng lãi thì anh V sẽ được toàn quyền sử dụng thửa đất trên. Ngày 22/4/2023 chị tiếp tục vay của anh V 120.000.000 đồng, ghi luôn nội dung vay vào giấy thế chấp ngày 03/4/2024, lãi suất cũng thoả thuận 4% một tháng. Khi ký hợp đồng thế chấp chị đóng lãi đầy đủ đến tháng 11/2023 thì ngưng với số tiền lãi là 120.000.000 đồng.
Khoảng tháng 11/2023 thì anh Tiêu Đình N khởi kiện chị tại Tòa Á, sau đó chị và anh N thoả thuận ký tiếp một hợp đồng đặt cọc ngày 25/12/2023. Hợp đồng đặt cọc ngày 25/12/2023 là chị và anh N thoả thuận với nhau, không có sự tham gia của anh V, chị V1. Các bên thoả thuận như sau anh N sẽ rút đơn khởi kiện tại tòa án và rút đơn ngăn chặn tại các cơ quan để cho anh V, chị V1 được tiếp tục nhận chuyển nhượng đất. Anh N đồng ý tiếp tục thực hiện hợp đồng đặt cọc với chị, chị đồng ý ký chuyển nhượng cho anh N thửa đất số 794; tờ bản đồ số 49, tại ấp D, xã S, huyện T, tỉnh Tây Ninh và cam kết giao tiền cho anh N theo các tiến độ:
- Ngày 03/4/2023 giao cho anh N 100.000.000 đồng.
- Ngày 25/12/2023 giao cho anh N 100.000.000 đồng.
- Ngày 25/01/2024 giao cho anh N 200.000.000 đồng.
- Ngày 06/3/2024 giao cho anh N 200.000.000 đồng.
- Ngày 06/4/2024 giao cho anh N 200.000.000 đồng.
Tuy nhiên các nội dung đã thoả thuận nêu trên thì chị chỉ thực hiện được là đã giao cho anh N 180.000.000 đồng, còn các thoả thuận khác chị chưa thực hiện. Sau khi ký thoả thuận đặt cọc ngày 25/12/2023 anh N rút đơn khởi kiện và anh V đã làm thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Nay chị đồng ý với toàn bộ yêu cầu khởi kiện của anh Tiêu Đình N, đồng ý trả lại cho anh V số tiền đã vay 470.000.000 đồng; không đồng ý thanh toán cho anh V tiền đồ đất. Yêu cầu anh N trả lại số tiền 180.000.000 đồng, nếu anh N không đồng ý trả thì chị cũng không yêu cầu được nhận lại tiền. Đối với số tiền lãi chị đã đóng cho anh V chị yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. Trường hợp Tòa án tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa chị và anh V, chị V1 vô hiệu chị yêu cầu giải quyết hậu quả của hợp đồng theo quy định của pháp luật.
Tại biên bản lấy lời khai ngày 06/3/2024 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Phạm Khánh V trình bày:
Vào ngày 03/4/2024, chị Giàu c vay của anh số tiền 350.000.000 đồng có thể chấp cho anh một giấy chứng nhận quyền sử dụng đất diện tích 1.007,4m², thửa đất 463, tờ bản đồ số 42, đất trồng cây lâu năm, toạ lạc tại ấp H, xã T, huyện T, tỉnh Tây Ninh đứng tên Tiêu Đình N. Khi thế chấp chị G cung cấp cho anh một hợp đồng ủy quyền do anh Tiêu Đình N ký ủy quyền toàn bộ cho chị G đối với phần đất trên. Anh và chị G làm giấy viết tay, do anh viết và ký tên, nội dung là anh giao chị G 350.000.000 đồng và thế chấp phần đất trên. Cùng ngày 03/4/2024 chị G, anh và chị V1 ra Văn phòng Công chứng ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với phần đất nêu trên. Ngày 22/4/2023 chị G đến vay tiếp của anh 120.000.000 đồng và ghi luôn vào giấy thế chấp trên, số tiền 120.000.000 đồng này thì hai bên cũng thoả thuận thế chấp phần đất diện tích 1.007,4m², thửa đất 463, tờ bản đồ số 42, đất trồng cây lâu năm, toạ lạc tại ấp H, xã T, huyện T, tỉnh Tây Ninh đứng tên Tiêu Đình N. Khi vay hai bên thoả thuận miệng lãi suất 4% một tháng, sau khi vay tổng số tiền 470.000.000 đồng chị Giàu c đóng cho anh được khoảng 5-6 lần tiền lãi với tổng số tiền lãi là 120.000.000 đồng, đến tháng 11/2023 chị G ngưng đóng lãi cho anh. Sau đó khoảng tháng 12/2023 chị G báo với anh là đã thương lượng xong với anh Tiêu Đình N và anh Nhan Thanh Duy n anh cử đi làm thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo quy định. Vì trong hợp đồng thế chấp hai bên thoả thuận nếu chị G đóng lãi trễ 1,5 tháng thì anh được quyền chuyển nhượng phần đất trên.
Ngày 24/5/2024 chị G chuyển khoản trả cho anh 100.000.000 đồng; ngày 29/5/2024 chị G chuyển khoản trả 190.000.000 đồng. Hiện nay chị G còn nợ anh số tiền 180.000.000 đồng. Nay đối với yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được văn phòng C, tỉnh Tây Ninh chứng nhận số 001755, quyển số 04/2023/TP/CC-SCC/HĐGD ngày 03/4/2023 giữa chị G và vợ chồng anh của anh Tiêu Đình N thì anh không đồng ý. Trường hợp Tòa án tuyên hủy hợp đồng chuyển nhượng thì chị G phải thanh toán cho anh tiền còn nợ 180.000.000 đồng, anh không yêu cầu tính tiền lãi. Anh yêu cầu được nhận lại tiền đồ đất 30.000.000 đồng. Trường hợp Tòa án tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa anh và chị G vô hiệu anh yêu cầu giải quyết hậu quả của hợp đồng theo quy định của pháp luật.
Tại bản tư khai ngày 12/3/2024, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan chị Nguyễn Thị Tuyết V1 trình bày: Chị đồng ý với lời khai của anh Phạm Khánh V, không có ý kiến gì khác.
Tại biên bản lấy lời khai ngày 25/4/2024, anh Nhan Thanh D trình bày:
Anh là bạn của anh N và chị G. Vào ngày 03/4/2023 anh có ký người làm chứng trong hợp đồng đặt cọc giữa anh N và chị G. Phần đất chuyển nhượng là của anh N, không liên quan đến anh.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 135/2024/DS-ST ngày 12 tháng 7 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh đã quyết định:
Căn cứ các Điều 124, 131; 328; 463; 466; 468; 470; 562 của Bộ luật Dân sự; Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:
1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của anh Tiêu Đình N về việc tranh chấp hủy hợp đồng đặt cọc, hợp đồng ủy quyền, tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu.
Hủy hợp đồng đặt cọc ngày 03/4/2023; hợp đồng đặt cọc ngày 25/12/2023; hợp đồng ủy quyền ngày 03/4/2023 được văn phòng C, tỉnh Tây Ninh chứng nhận số 001754, quyền số 04/2023/TP/CC-SCC/HĐGD giữa anh Tiêu Đình N và chị Nguyễn Thị Ngọc G liên quan đến diện tích 1.007,4m², thửa đất 463, tờ bản đồ số 42, đất toạ lạc tại ấp H, xã T, huyện T, tỉnh Tây Ninh.
Tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với diện tích 1.007,4m², thửa đất 463, tờ bản đồ số 42, đất toạ lạc tại ấp H, xã T, huyện T, tỉnh Tây Ninh, Văn phòng C, tỉnh Tây Ninh chứng nhận số 001755, quyền số 04/2023/TP/CC-SCC/HĐGD ngày 03/4/2023 giữa chị Nguyễn Thị Ngọc G và anh Phạm Khánh V, chị Nguyễn Thị Tuyết V1 là vô hiệu.
2. Hợp đồng vay tiền ngày 03-4-2023 và ngày 22-4-2023 giữa chị Nguyễn Thị Ngọc G và anh Phạm Khánh V, có hiệu lực pháp luật. Buộc chị Nguyễn Thị Ngọc G trả cho anh Phạm Khánh V số tiền vay gốc 170.739.000 (một trăm bảy mươi triệu bảy trăm ba mươi chín nghìn) đồng. Ghi nhận chị G đã thanh toán tiền lãi xong đến ngày xét xử sơ thẩm.
Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
3. Anh Tiêu Đình N được quyền sử dụng diện tích 1.007,4m², thửa đất 463, tờ bản đồ số 42, đất toạ lạc tại ấp H, xã T, huyện T, tỉnh Tây Ninh. Anh Tiêu Đình N có quyền đến các cơ quan chức năng có thẩm quyền làm thủ tục cấp lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất diện tích 1.007,4m², thửa đất 463, tờ bản đồ số 42, đất toạ lạc tại ấp H, xã T, huyện T, tỉnh Tây Ninh.
Kiến nghị cơ quan có thẩm quyền điều chỉnh lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do anh Phạm Khánh V, chị Nguyễn Thị Tuyết V1 đứng tên sang cho anh Tiêu Đình N cho phù hợp với phần quyết định của bản án này.
Anh Tiêu Đình N có nghĩa vụ trả cho anh Phạm Khánh V số tiền đồ đất 30.000.000 (ba mươi triệu) đồng.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về chi phí tố tụng, án phí, quyền kháng cáo và quyền yêu cầu thi hành án.
Nội dung kháng cáo: Theo đơn kháng cáo để ngày 26 tháng 7 năm 2024 của chị Nguyễn Thị Ngọc G yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh giải quyết: Hủy bản án sơ thẩm vì đưa thiếu người tham gia tố tụng; không xét tính hiệu lực của hợp đồng thế chấp.
Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tây Ninh.
+ Về tố tụng: Thẩm phán thụ lý vụ án, thu thập chứng cứ, chuẩn bị xét xử và quyết định đưa vụ án ra xét xử đều bảo đảm đúng quy định về thời hạn, nội dung, thẩm quyền của Bộ luật Tố tụng dân sự; Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa thực hiện đúng trình tự, thủ tục đối với phiên tòa dân sự. Những người tham gia tố tụng đều thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình, chấp hành tốt Nội quy phiên tòa;
+ Về nội dung: Xét thấy nội dung hợp đồng đặt cọc ngày 03-4-2023 và ngày 25-12-2023 các bên có thỏa thuận quyền và nghĩa vụ khi một trong các bên không thực hiện thỏa thuận. Cấp sơ thẩm xét xử là có căn cứ, đúng pháp luật.
Chị Nguyễn Thị Ngọc G kháng cáo nhưng không xuất trình được chứng cứ mới. Đề nghị Hội đồng xét xử, không chấp nhận kháng cáo của bị đơn; Giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng:
Sau khi Tòa án nhân dân huyện Tân Châu xét xử sơ thẩm ngày 12-7-2024, chị Nguyễn Thị Ngọc G có đơn kháng cáo ngày 26-7-2024; có nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm; Xét thấy việc kháng cáo là đảm bảo theo quy định của pháp luật.
[2] Xét kháng cáo thấy rằng:
[2.1] Về yêu cầu hủy hợp đồng đặt cọc: Anh Tiêu Đình N khởi kiện yêu cầu hủy hợp đồng đặt cọc ngày 03/4/2023 và ngày 25/12/2023. Hội đồng xét xử xét thấy: Ngày 03/4/2023 chị G và anh N có ký hợp đồng đặt cọc, thoả thuận anh N bán cho chị G phần đất diện tích 1.007,4m², thửa đất 463, tờ bản đồ số 42, đất trồng cây lâu năm, toạ lạc tại ấp H, xã T, huyện T, tỉnh Tây Ninh với giá 800.000.000 đồng, chị G giao trước 100.000.000 đồng, còn 700.000.000 đồng hẹn trong vòng 140 ngày sẽ thanh toán đủ. Hết thời hạn thoả thuận chị G đã không thanh toán cho anh N 700.000.000 đồng. Ngày 25/12/2023 các bên tiếp tục ký hợp đồng đặt cọc mới có nội dung thoả thuận: anh N sẽ rút đơn khởi kiện tại tòa án và rút đơn ngăn chặn tại các cơ quan để cho anh V, chị V1 được tiếp tục nhận chuyển nhượng đất. Anh N đồng ý tiếp tục thực hiện hợp đồng đặt cọc với chị G, chị G đồng ý ký chuyển nhượng cho anh N thửa đất số 794; tờ bản đồ số 49, tại ấp D, xã S, huyện T, tỉnh Tây Ninh và cam kết giao tiền cho anh N theo các tiến độ: Ngày 03/4/2023 giao cho anh N 100.000.000 đồng; ngày 25/12/2023 giao cho anh N 100.000.000 đồng; ngày 25/01/2024 giao cho anh N 200.000.000 đồng; Ngày 06/3/2024 giao cho anh N 200.000.000 đồng; ngày 06/4/2024 giao cho anh N 200.000.000 đồng. Tính đến ngày anh N khởi kiện, chị G mới chị giao cho anh N được 180.000.000 đồng, còn các nội dung thoả thuận khác chị G không thực hiện được. Như vậy cả hai hợp đồng đặt cọc ngày 03/4/2023 và 25/12/2023 chị G đều vi phạm thoả thuận đã cam kết nên yêu cầu hủy hợp đồng đặt cọc của anh N là có căn cứ chấp nhận. Tại hợp đồng đặt cọc ngày 25/12/2023 các bên có thoả thuận “Trường hợp bên B không thanh toán hoặc thanh toán không đầy đủ số tiền khi đến hạn thanh toán theo tiến độ nêu trên dù bất kỳ lý do gì thì xem như bên B từ chối giao kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, bên A có quyền yêu cầu hủy bỏ hợp đồng đặt cọc đã ký ngày 03/4/2023 và hợp đồng này, không hoàn trả lại số tiền đã nhận của bên B”. Do chị G vi phạm hợp đồng đặt cọc, anh N không đồng ý trả lại cọc nên số tiền đã đặt cọc 180.000.000 đồng thuộc về anh N.
[2.2] Xét yêu cầu hủy hợp đồng ủy quyền: Ngày 03/4/2023 anh N ký hợp đồng ủy quyền cho chị G đối với phần đất diện tích 1.007,4m², thửa đất 463, tờ bản đồ số 42. Tuy nhiên, ngày 03/4/2023 chị G đã ký hợp đồng chuyển nhượng phần đất nêu trên cho anh V và chị V1. Quá trình giải quyết vụ án chị G và anh V thừa nhận giữa chị G và anh V không có việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất, thực chất chị G thế chấp phần đất nêu trên cho anh V để vay số tiền 470.000.000 đồng. Tại điểm a, d khoản 1 Điều 5 Hợp đồng ủy quyền các bên có thoả thuận:
“Bên B có các nghĩa vụ sau:
a) Thực hiện công việc theo ủy quyền và báo cho bên A về việc thực hiện công việc đó”.
d) Giao cho bên A tài sản đã nhận và những lợi ích thu được trong khi thực hiện ủy quyền theo thoả thuận hoặc theo quy định của pháp luật”.
Như vậy chị G đã tự ý đại diện anh N lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho anh V để vay tiền mà không được sự đồng ý của anh N là đã vi phạm nghĩa vụ của bên được ủy quyền. Do đó Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc Hủy hợp đồng ủy quyền được Văn phòng C chứng nhận số 0001754 quyển số 04/2023/TP/CC-SCC/HĐGD ngày 03/4/2023 giữa chị G và anh N.
[2.3] Xét yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu: Chị G và anh V thừa nhận các bên ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với diện tích 1.007,4m², thửa đất 463, tờ bản đồ số 42 để đảm bảo cho khoản vay 470.000.000 đồng. Như vậy có căn cứ xác định hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa chị G và anh V là giả tạo nhằm che đậy hợp đồng vay tài sản 470.000.000 đồng. Do đó Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh N về việc yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được văn phòng C, tỉnh Tây Ninh chứng nhận số 001755, quyển số 04/2023/TP/CC-SCC/HĐGD ngày 03/4/2023 giữa chị G và anh V, chị V1 là vô hiệu.
[2.4] Khoản 2 Điều 131 Bộ luật Dân sự quy định “Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả”. Sau khi nhận chuyển nhượng anh V đã đổ 15 xe đất với số tiền 30.000.000 đồng để san lấp mặt bằng. Anh N tự nguyện thanh toán số tiền đã đổ đất cho anh V nên Hội đồng xét xử ghi nhận, anh N có nghĩa vụ thanh toán cho anh V số tiền 30.000.000 đồng.
[2.5] Do Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ký ngày 03/4/2023, giữa chị G và anh V, chị V1 đối với diện tích 1.007,4m², thửa đất 463, tờ bản đồ số 42, đất toạ lạc tại ấp H, xã T, huyện T, tỉnh Tây Ninh, Văn phòng C, tỉnh Tây Ninh chứng nhận số 001755, quyển số 04/2023/TP/CC-SCC/HĐGD ngày 03/4/2023 là giả tạo nhằm che giấu giao dịch vay tài sản nên Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là vô hiệu và hợp đồng vay tài sản vẫn có hiệu lực. Chị Nguyễn Thị Ngọc G thừa nhận có vay của anh V số tiền 470.000.000 đồng, đồng ý trả số tiền trên. Anh V xác định chị G đã thanh toán được số tiền 290.000.000 đồng.
Đối với yêu cầu số tiền 180.000.000 đồng, tại cấp sơ thẩm chị G không có đơn yêu cầu, không nộp tiền tạm ứng án phí, nên không có cơ sở xem xét.
Từ các nhận định trên Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ đúng pháp luật.
Chị Nguyễn Thị Ngọc G kháng cáo nhưng không cung cấp được chứng cứ mới chứng minh cho yêu cầu kháng cáo của chị.
Vì vậy không có cơ sở chấp nhận kháng cáo của chị Nguyễn Thị Ngọc G; Chấp nhận đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa. Giữ nguyên bản án sơ thẩm số 135/2024/DS-ST ngày 12 tháng 7 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh.
[3] Về án phí: Do kháng cáo của chị Nguyễn Thị Ngọc G không được chấp nhận, nên phải chịu án phí dân sự phúc thẩm theo quy định tại Điều 29 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của chị Nguyễn Thị Ngọc G Giữ nguyên bản án sơ thẩm số 135/2024/DS-ST ngày 12 tháng 7 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh.
2. Căn cứ các Điều 124, 131; 328; 463; 466; 468; 470; 562 của Bộ luật Dân sự; Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:
2.1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của anh Tiêu Đình N về việc tranh chấp hủy hợp đồng đặt cọc, hợp đồng ủy quyền, tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu.
Hủy hợp đồng đặt cọc ngày 03/4/2023; hợp đồng đặt cọc ngày 25/12/2023; hợp đồng ủy quyền ngày 03/4/2023 được Văn phòng C, tỉnh Tây Ninh chứng nhận số 001754, quyền số 04/2023/TP/CC-SCC/HĐGD giữa anh Tiêu Đình N và chị Nguyễn Thị Ngọc G liên quan đến diện tích 1.007,4m², thửa đất 463, tờ bản đồ số 42, đất toạ lạc tại ấp H, xã T, huyện T, tỉnh Tây Ninh.
Tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với diện tích 1.007,4m², thửa đất 463, tờ bản đồ số 42, đất toạ lạc tại ấp H, xã T, huyện T, tỉnh Tây Ninh, văn phòng C, tỉnh Tây Ninh chứng nhận số 001755, quyền số 04/2023/TP/CC-SCC/HĐGD ngày 03/4/2023 giữa chị Nguyễn Thị Ngọc G và anh Phạm Khánh V, chị Nguyễn Thị Tuyết V1 là vô hiệu.
2.2. Hợp đồng vay tiền ngày 03-4-2023 và ngày 22-4-2023 giữa chị Nguyễn Thị Ngọc G và anh Phạm Khánh V, có hiệu lực pháp luật. Buộc chị Nguyễn Thị Ngọc G trả cho anh Phạm Khánh V số tiền vay gốc 170.739.000 (một trăm bảy mươi triệu bảy trăm ba mươi chín nghìn) đồng. Ghi nhận chị đã thanh toán tiền lãi xong đến ngày xét xử sơ thẩm.
Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
2.3. Anh Tiêu Đình N được quyền sử dụng diện tích 1.007,4m², thửa đất 463, tờ bản đồ số 42, đất toạ lạc tại ấp H, xã T, huyện T, tỉnh Tây Ninh. Anh Tiêu Đình N có quyền đến các cơ quan chức năng có thẩm quyền làm thủ tục cấp lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất diện tích 1.007,4m², thửa đất 463, tờ bản đồ số 42, đất toạ lạc tại ấp H, xã T, huyện T, tỉnh Tây Ninh.
Kiến nghị cơ quan có thẩm quyền điều chỉnh lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do anh Phạm Khánh V, chị Nguyễn Thị Tuyết V1 đứng tên sang cho anh Tiêu Đình N cho phù hợp với phần quyết định của bản án này.
Anh Tiêu Đình N có nghĩa vụ trả cho anh Phạm Khánh V số tiền đồ đất 30.000.000 (ba mươi triệu) đồng.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
4. Về chi phí tố tụng: Chị Nguyễn Thị Ngọc G phải chịu 2.000.000 (hai triệu) đồng chi phí định giá; 700.000 (bảy trăm nghìn) đồng chi phí xem xét thẩm định tại chỗ. Anh Tiêu Đình N đã nộp tạm ứng chi phí định giá và xem xét, thẩm định tại chỗ 2.700.000 đồng, chị Nguyễn Thị Ngọc G có nghĩa vụ thanh toán lại cho anh N 2.700.000 (hai triệu bảy trăm nghìn) đồng.
5. Về án phí:
5.1. Án phí dân sự sơ thẩm:
Chị Nguyễn Thị Ngọc G phải chịu 9.737.000 (chín triệu bảy trăm ba mươi bảy nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm.
Anh Tiêu Đình N phải chịu 1.500.000 (một triệu năm trăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm nhưng được khấu trừ số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm 300.000 đồng đã nộp theo biên lai thu số 0005866 ngày 02 tháng 02 năm 2024; 300.000 đồng đã nộp theo biên lai thu số 0005859 ngày 01 tháng 02 năm 2024; 300.000 đồng đã nộp theo biên lai thu số 0005860 ngày 01 tháng 02 năm 2024; 300.000 đồng đã nộp theo biên lai thu số 0005861 ngày 01 tháng 02 năm 2024 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh. Anh Tiêu Đình N còn phải nộp 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm.
5.2. Án phí dân sự phúc thẩm:
Chị Nguyễn Thị Ngọc G phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn) đồng. Nhưng được khấu trừ số tiền tạm ứng án phí phúc thẩm do chị đã nộp theo Biên lai thu số 0006496 ngày 26-7-2024 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh.
Bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 Luật Thi hành án Dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án Dân sự.
6. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tranh chấp yêu cầu hủy hợp đồng đặt cọc, hợp đồng ủy quyền số 448/2024/DS-PT
Số hiệu: | 448/2024/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Tây Ninh |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 09/09/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về