Bản án 39/2022/DS-ST về tranh chấp yêu cầu chia tài sản chung hộ gia đình và chia thừa kế

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N, TỈNH NINH THUẬN

BN ÁN 39/2022/DS-ST NGÀY 20/12/2022 VỀ TRANH CHẤP YÊU CẦU CHIA TÀI SẢN CHUNG HỘ GIA ĐÌNH VÀ CHIA THỪA KẾ

Ngày 20 tháng 12 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện N xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 40/2020/TLST-TCDS ngày 15 tháng 12 năm 2020. về việc: “Chia tài sản chung hộ gia đình và chia thừa kế” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 44/2022/QĐXX-ST, ngày: 05-12-2022; giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Trần Văn K, sinh năm: 1976 (có mặt) Bị đơn: Trần Văn T, sinh năm: 1978.(có mặt) Cùng địa chỉ: Thôn N, xã P, huyện N-Ninh Thuận.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ L quan phía nguyên đơn:

Trần Văn T1, sinh năm: 1965 (có mặt);

Trần Thị Hồng L (L chị chết), sinh năm: 1968 ủy quyền cho ông K ngày 25-01- 2021 (có mặt);

Trần Thị Hồng L (L Em), sinh năm: 1971 ủy quyền cho ông K ngày 25-01- 2021 (có mặt);

Trần Thị H, sinh năm: 1981 ủy quyền cho ông K ngày 25-01-2021 (có mặt);

Trần Thị L, sinh năm: 1974 ủy quyền cho ông K ngày 25-01-2021 (có mặt);

Nguyễn Thị Bé U, sinh năm: 1981(vợ ông T có mặt);

Cùng địa chỉ: Thôn N, xã P, huyện N, Ninh Thuận.

Trần Văn H, sinh năm:1961 hiện nay trú tại chùa B thuộc thôn N, phường Đ, thành phố P ủy quyền cho ông K ngày 29-10-2020.

Trần Văn D, sinh năm: 1963; trú tại chùa LL thuộc phường Đ, thành phố P ủy quyền cho ông K ngày 21-2-021.

- Người kế thừa quyền và nghĩa vụ của bà L chị gồm:

Bùi Khắc T1, sinh năm: 1966 (chồng bà L);

Bùi Mnh T, sinh năm: 1987 (con bà L), Bùi Thị Diễm M, sinh năm: 1989 (con bà L);

Bùi Mnh T2, sinh năm: 1992 (con bà L);

Cùng địa chỉ: Thôn N, xã P, huyện N, tỉnh Ninh Thuận (yêu cầu xét xử vắng mặt).

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ L quan phía bị đơn:

Vợ chồng: ông Lê Tấn A, sinh năm: 1994 (có mặt) và bà Trần Thị Như H, sinh năm: 1999 (có mặt).

Cùng địa chỉ: Thôn N, xã P, huyện N, Ninh Thuận

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn K trình bày: Cha tên Trần Văn N, sinh năm: 1939, chết năm 2018, mẹ Lê Thị M, sinh năm: 1940, chết năm 2002; cha mẹ có 9 người con tên: Trần Văn H, sinh năm: 1961; Trần Văn D, sinh năm: 1963; Trần Văn T1, sinh năm: 1965; Trần Văn K, sinh năm: 1976; Trần Thị Hồng L (chị), sinh năm:

1968; Trần Thị Hồng L (Em), sinh năm: 1971; Trần Thị Hồng L, sinh năm:

1974; Trần Thị H, sinh năm: 1981;

Trần Văn H, sinh năm:1961 hiện nay trú tại chùa B thuộc thôn N, phường Đ, thành phố P Trần Văn D, sinh năm: 1963; trú tại chùa L thuộc phường Đ, thành phố P.

Mẹ tôi chết trước sau đó cha tôi chết, khi cha tôi còn sống có viết đi chúc để lại, di chúc do ông anh ruột tên Trần Văn H đánh máy theo nguyện vọng của cha tôi; khi di chúc lập xong cha tôi có họp cả gia đình lúc đó không có mặt Trần Thị Hồng L (chị), Trần Văn K, lúc đó có mặt đầy đủ các con cha tôi thông qua bản di chúc cho tất cả những người có mặt cùng nghe nội dung di chúc sau đó cha tôi ký vào di chúc và các anh, chị, em có mặt cùng ký vào di chúc, riêng 2 người không có mặt là ông K, bà L (chị) không ký vào di chúc; di chúc này cha tôi thông qua cho gia đình nghe cùng ký chứ chưa đưa đến chính quyền thị thực.

Trong di chúc cha tôi có kê khai tài sản cụ thể giao cho ông T gồm: 3.200m2 đất ruộng; 1.200m2 đất màu; 01căn nhà cấp 4 gắn liền với đất diện tích 600m2 thổ cư và di chúc cha tôi có viết ông Trần Văn T không được quyền mua bán hay sang nhượng, hoán đổi, nhà chỉ trong coi thờ cúng, còn đất thì quản lý canh tác.

Nhưng nay ông T tự ý cho thuê ruộng, còn đất ông T tụ ý cho con rễ xây nhà ở khi anh, chị, em trong gia đình nói thì ông T trả lời không ai có quyền nên xảy ra tranh chấp.

Vì vậy nay Anh, chị em tôi yêu cầu ông T chia tài sản của cha, mẹ để lại theo pháp luật gồm các tài sản sau:

Chia căn nhà xây nằm trên diện tích khoảng 600m2, thực tế đo đạc 381m2 đt thổ cư thuộc thửa 80, tờ bản đồ số 27 và các thửa đất gồm:

- Thửa đất số 20, diện tích 1.702m2 , tờ bản đồ 34, xã P - Thửa đất số 21, diện tích 1.560m2 , tờ bản đồ 34, xã P - Thửa đất số 116, diện tích 857m2 , tờ bản đồ 27, xã P - Thửa đất số 117, diện tích 862m2 , tờ bản đồ 27, xã P Tôi công nhận về tất cả đất chúng tôi khai và tài sản chúng tôi yêu cầu chia là di sản của cha mẹ để lại;

Tại phiên tòa các đương sự khai và xác nhận căn nhà xây nằm trên diện tích khoảng 600m2, thực tế đo đạc 381m2 đất thổ cư thuộc thửa 80, tờ bản đồ số 27, đo đạc thực tế diện tích 381m2 là di sản của ông Nuôi, bà Mứ để lại; còn các thửa đất số 20, diện tích 1.702m2;;, thửa đất số 21, diện tích 1.560m2, tờ bản đồ 34, xã P; thửa đất số 116, diện tích 857m2 ; thửa đất số 117, diện tích 862m2, tờ bản đồ 27, xã P là đất cấp theo nhân khẩu hộ gia đình gồm: Cha tên Trần Văn Nuôi, sinh năm: 1939, chết năm 2018, mẹ Lê Thị Mứ, sinh năm: 1940, chết năm 2002 và thông tin Công an xã P cung cấp lúc cấp đất có 8 người con tên: Trần Văn T1, sinh năm: 1965; Trần Văn D, sinh năm: 1963; Trần Văn K, sinh năm: 1976; Trần Thị Hồng L (chị), sinh năm: 1968; Trần Thị Hồng L (Em), sinh năm: 1971; Trần Thị Hồng L, sinh năm: 1974; Trần Thị H, sinh năm:

1981; Trần Văn T, sinh năm:1978.

Không có tên Trần Văn H, sinh năm: 1961;

Nay nguyên đơn yêu cầu được chia tài sản theo pháp luật và các người ủy quyền cho nguyên đơn yêu cầu Tòa án chia như sau:

- Về đất ruộng thuộc thửa 20, có diện tích 1.702m2 , thửa đất số 21 có diện tích 1.560m2 chia cho ông T 1 phần, ông Trần Văn T1 1 phần còn phần các người còn lại giao cho ông K T2 quyền sử dụng.

- Về đất màu thuộc thửa 116, diện tích 857m2 qua đo đạc thực tế có diện tích 775m2, thửa 117, diện tích 862m2 qua đo đạc thực tế có diện tích 834m2, tờ bản đồ 27 chia cho mỗi người 1 phần bằng hiện vật là đất.

- Về đất thổ cư gắn liền nhà thuộc thửa 27, diện tích 600m2, thực tế đo đạc 381m2 các người có quyền lợi nghĩa vụ L quan ủy quyền cho nguyên đơn (ông K) và đồng ý giao cho ông K được quyền sở hữu thờ cúng ông, bà, cha, mẹ.

Tại phiên tòa ông K khai giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên cha ông tên Trần Văn N bản chính hiện nay ông Trần Văn H đang giữ.

Bị đơn T trình bày:

Cha tên Trần Văn N, sinh năm: 1939, chết năm 2018, mẹ Lê Thị M, sinh năm:

1940, chết năm 2002; cha mẹ có 9 người con tên: Trần Văn H, sinh năm: 1961; Trần Văn D, sinh năm: 1963; Trần Văn T1, sinh năm: 1965; Trần Văn K, sinh năm: 1976; Trần Thị Hồng L (chị), sinh năm: 1968 (chết); Trần Thị Hồng L (Em), sinh năm: 1971; Trần Thị Hồng L, sinh năm: 1974; Trần Thị H, sinh năm: 1981;

Trần Văn H, sinh năm:1961; Trần Văn D, sinh năm: 1963.

Mẹ chết trước, sau đó cha chết, khi cha ông còn sống có viết đi chúc để lại, di chúc do anh ruột tên Trần Văn H đánh máy theo nguyện vọng của cha ông; khi di chúc lập xong cha ông có họp gia đình lúc họp không có mặt Trần Thị Hồng L (L chị), Trần Văn K, có mặt đầy đủ các con, cha tôi thông qua bản di chúc cho tất cả những người có mặt cùng nghe nội dung di chúc sau đó cha ông ký vào di chúc và các anh, chị, em có mặt cùng ký vào di chúc, riêng 2 người không có mặt là ông K, bà L (L chị) không ký vào di chúc; di chúc này cha ông thông qua cho gia đình nghe cùng ký chứ chưa đưa đến chính quyền thị thực.

Trong di chúc cha ông có kê khai tài sản cụ thể giao cho ông T gồm: 3.200m2 đất ruộng; 1.200m2 đất màu; 01 căn nhà cấp 4 gắn liền với đất diện tích 600m2 thổ cư và di chúc cha tôi có viết cho trông coi thờ cúng, còn đất thì quản lý canh tác, không ai được tranh chấp.

Nhưng nay ông K và bà L khởi kiên ông yêu cầu Tòa án xem xét chia theo di chúc của cha ông để lại và ông yêu cầu chia diện tích đất bà L ở hiện nay vì lúc đó cha ông cho bà L ở tạm không có làm giấy tờ cho và sang tên hợp pháp; vì vậy ông yêu cầu đưa vào di sản chia theo pháp luật.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ L quan phía bị đơn:

Ông Trần Văn T1 trình bày: Cha tôi tên Trần Văn N, sinh năm: 1939, chết năm 2018, mẹ Lê Thị M, sinh năm: 1940, chết năm 2002; cha mẹ ông có 9 người con theo ông K, ông T khai là đúng Mẹ ông chết trước sau đó cha ông chết, khi cha ông còn sống có viết đi chúc để lại, di chúc do ông anh ruột tên Trần Văn H đánh máy theo nguyện vọng của cha ông; di chúc lập xong cha ông có họp gia đình lúc đó không có mặt Trần Thị Hồng L (chị), Trần Văn K, lúc đó có mặt đầy đủ các con, chaông thông qua bản di chúc cho tất cả những người có mặt cùng nghe nội dung di chúc sau đó cha ông ký vào di chúc và các anh, chị, em có mặt cùng ký vào di chúc, riêng 2 người không có mặt là ông K, bà L (chị) không ký vào di chúc; di chúc này cha ông thông qua cho gia đình nghe cùng ký chứ chưa đưa đến chính quyền thị thực.

Trong di chúc cha ông có kê khai tài sản cụ thể giao cho ông T gồm: 3.200m2 đất ruộng; 1.200m2 đất màu; 01 căn nhà cấp 4 gắn liền với đất diện tích 600m2, thực tế đo đạc 381m2 thổ cư và ông T quản lý trông coi cho đến hôm nay, ông T thờ cúng đàng hoàng.

Nay ông K khởi kiện, ông T1 yêu cầu Tòa án xem xét chia theo di chúc của cha, mẹ ông để lại là T2 bộ diện tích đất và tài sản ghi trong di chúc cho ông T trọn quyền sử dụng, sở hữu.

- Ông Bùi Khắc T1, (chồng bà L chị) đại điện các con của ông trình bày; ông là chồng bà Trần Thị Hồng L (L chị), sinh năm:1969, chết năm 2021, gia đình có 4 người gồm: Bùi Mnh T, sinh năm: 1987, Bùi Thị Diễm M, sinh năm: 1989, Bùi Mnh T2, sinh năm: 1992 và ông (Bùi Khắc T1, sinh năm: 1966) Vợ ông tên L (L chị) lúc vợ ông còn sống ủy quyền cho ông K trình bày: gia đình đồng ý giao lại cho ông K được T2 quyền định đoạt để tu bổ từ đường, ông T1 và các con ông xin vắng mặt vào các lần giải quyết, xét xử.

Vợ chồng: ông Lê T1 Anh; bà Trần Thị Như Hằng (con và rễ ông T) trình bày: Đất vợ chồng xây nhà hiện nay là của cha ông tên T cho, hiện nay vợ chồng không có nhà ở ông yêu cầu được ở căn nhà trên.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện N phát biểu: Qua kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án. Thẩm phán, Hội đồng xét xử phiên tòa dân sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện N thực hiện đúng thủ tục tố tụng từ khi triệu tập, thụ lý, lấy lời khai, thu thập chứng cứ, hòa giải và các thủ tục khác cũng được thực hiện đầy đủ đúng quyền, nghĩa vụ của đương sự kể từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án. Đối với nội dung vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Bộ luật dân sự, Bộ luật tố tụng dân sự tuyên xử chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc yêu cầu chia di sản thừa kế của ông Nuôi bà Mứ để lại theo pháp luật và yêu cầu chia tài sản chung.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Hi đồng xét xử xét thấy: Ông Trần Văn K yêu cầu chia thừa kế, yêu cầu chia tài sản là quyền sử dụng đất theo nhận khẩu là có căn cứ pháp luật nên thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân án dân huyện N.

Hi đồng xét xử xét thấy: đây là vụ kiện tranh chấp "yêu cầu tài sản chung hộ gia đình (đất cấp theo nhân khẩu); chia di sản thừa kế".

Về Điều luật áp dụng: Bộ luật dân sự, Bộ luật tố tụng dân sự 2015 và các văn bản hướng dẫn của Tòa án nhân dân Tối cao.

Về tố tụng: Những người có quyền lợi và nghĩa vụ L quan phía nguyên đơn gồm: Trần Thị Hồng L, sinh năm: 1968 (L chị chết), Trần Thị Hồng L (L Em), sinh năm: 1971; Trần Thị H, sinh năm: 1981; Trần Thị L, sinh năm: 1974 tất cả ủy quyền cho ông K ngày 25-01-2021 (có mặt);

Trần Văn H, sinh năm:1961 ủy quyền cho ông K ngày 29-10-2020.

Trần Văn D, sinh năm: 1963 ủy quyền cho ông K ngày 21-2-2021.

- Người kế thừa quyền và nghĩa vụ của bà L chị gồm: Bùi Khắc T1, sinh năm:

1966 (chồng bà L); Bùi Mnh T, sinh năm: 1987 (con bà L); Bùi Thị Diễm M, sinh năm: 1989 (con bà L); Bùi Mnh T2, sinh năm: 1992 (con bà L) yêu cầu xét xử vắng mặt.

căn cứ Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án đưa ra xét xử theo luật định.

Theo biên bản định giá như sau:

I. Phần đất đang tranh chấp:

- Phần thửa đất đang tranh chấp đơn vị đo đạc đã tiến hành xác định ranh giới, mốc giới, thửa đất tại thực địa và tiến hành đo đạc thực tế tại diện tích thửa đất số 80 có một căn nhà, thửa đất số 116, 117, tờ bản đồ số 27 và thửa đất số 20, 21, tờ bản đồ số 34, xã P, loại đất trồng cây hàng năm.

Phần nhà trên thửa đất số 80 gắn liền thửa đất 116a theo trích lục:

. Nhà cấp 4c, diện tích 24m2 (nhà ông T tự xây dựng).

Kết cấu: móng đá chẻ, nền xi măng, cửa gỗ, mái tôn, tỷ lệ còn lại 40% Giá 2.300.000đồng/m2 = 22.080.000đồng . Mái che: diện tích 52,7m2.

Kết cấu: trụ sắt, mái tôn, vị kèo sắt, nền xi măng; tỷ lệ còn lại 40%.

Giá 741.000đồng/m2 = 15.620.280đồng . Nhà bếp: diện tích 18m2.

Kết cấu: móng xây đá chẻ, nền xi măng cửa ngỗ, mái tôn. tỷ lệ còn lại 40% Giá 1.136.000đồng/m2 = 8.179.200đồng.

Chuồng dê, chuồng cừu do ông T làm. Ông T không yêu cầu định giá.

. Nhà từ đường: nhà cha, mẹ ông K và ông T trên thửa đất 80 Nhà cấp 4b, diện tích 48m2.

Kết cấu: móng đá chẻ, nền gạch bông, cửa kính, mái tôn, khung sắt, tỷ lệ còn lại 40%.

Giá 2.500.000đồng/m2 . = 48.000.000đồng.

Thửa đất 80, diện tích 381m2 theo trích lục, vị trí 1, giá 60.000đồng/m2- đất trồng cây lâu năm.

Giá 60.000đồng/m2 = 22.860.000đồng.

Thửa đất 116a có vật kiến trúc như sau:

. 1 cây xoài đang thu hoạch, giá 572.000đồng/cây.

. 6 cây câu đang thu hoạch,giá 254.700đồng/cây x 6cây = 1.528.200 đồng.

. Cổng sắt 1(vào nhà ông T): kích thước (4,3 m x 1,8m) = 7.74m3.. Kết cấu: Xây gạch, quét sơn (0,4m x 0,4m x 2,2m x 2 trụ) = 0,704m3 Giá cổng 1: Di dời 325.080đồng x 2 trụ = 650.160 đồng Mái che ông T tạo dựng: diện tích 10m2.

Kết cấu: Trụ sắt. mái tôn, vĩ kèo sắt, nền lát gạch bát tràng, tỷ lệ còn lại 70%.

Giá 741.000đồng/m2 = 5.187.000đồng Sân xi măng: diện tích (15m x 8,5m ) + ( 10m x 8m) = 207.5m2; tỷ lệ còn lại 50%.

Giá 177.000đồng/m2 = 18.363.750đồng Mai che do ông K tạo dựng thuộc thửa 116 theo trích lục: diện tích 90m2.

Kết cấu: Trụ sắt, mái tôn kẽm, vị kèo sắt, kết hợp, xây gạch cao 1m nền lát gạch, tỷ lệ còn lại 30%, giá 741.000đồng/m2 = 20.007.000đồng.

- Cổng 2: (Cổng nhà bà H).

Kích thước: (3.5m x 1.8m) = 6,3m2.

kết cấu: xây gạch, tô quét sơn (0,4 x 0.4 x 2.2m x 2 trụ) = 0.704m2 Giá trị di dời 264.600đồng/m2 x 2 trụ = 529.500 đồng.

Mai che nhà bà H gắn liền thửa đất 116b, 116c; diện tích 33m2.

Kết cấu: Trụ sắt, mái tôn, vị kèo sắt, kết hợp, nền lát gạch bát tràng, tỷ lệ còn lại 30%, giá 741.000đồng/m2 = 7.335.900đồng.

Thửa đất 117d có vật kiến trúc gắn liền nhà bà Hằng, ông Anh (con ông T) như sau:

. Nhà: (nhà con ông T) nhà cấp 4a, diện tích 76m2.

Kết cấu: móng xây đá chẻ, nền lát gạch bông, tường xây gạch, kết hợp óp men, cửa gỗ, mái tôn, tỷ lệ còn lại 80%.

Giá 2.900.000đồng/m2 = 176.320.000đồng . Mái che: diện tích 46m2.

Kết cấu: Trụ sắt, mái tôn lạnh,vĩ kèo sắt, nền lát gạch bông, tỷ lệ còn lại 80%. Giá 741.000đồng/m2 = 27.268.800đồng .Tường rào: diện tích 35,2m2.

Kết cấu: xây bằng gạch, kết hợp khung sắt, tỷ lệ còn lại 80%.

Giá 290.000đồn/m2 = 8.166.400đồng.

-Thửa đất 116 theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất diện tích 857m2, theo trích lục đo đạc thực tế gồm các thửa 116, diện tích 115m2; thửa 116A, diện tích 198m2; thửa 116B, diện tích 76m2; thửa 116c, diện tích 74m2, thửa 116D, diện tích 156m2; thửa 116E, diện tích 156m2. Tổng diện tích 775m2 đất, vị trí 1 giá 60.000đồng/m2 = 46.500.000đồng.

- Thửa 117 theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất diện tích 862m2, theo trích lục đo đạc thực tế gồm các thửa 117, diện tích171m2, thửa 117A, diện tích 171m2, thửa 117B, diện tích 171m2, thửa 117C, diện tích 172m2, thửa 117D, diện tích 149m2; Tổng diện tích đo đạc thực tế 834m2, vị trí 1 giá 60.000đồng/m2 = 50.040.000đồng.

Phần thửa đất 80d của bà Trần Thị L có cây trồng và vật kiến trúc do bà L tạo dựng gồm các tài sản sau:

. 1 Cây mít đang thu hoạch, giá 456.000đồng/cây . 2 cây xoài đang thu hoạch, giá 572.000đồng/cây x 2cây = 1.154.000 đồng.

. 3 cây me đang thu hoạch giá:550.000đồng/cây x 3cây = 1.650.000đồng.

. 11 cây chuối đang thu hoạch, giá 170.000đồng/cây x11 cây = 1.870.000đồng.

. 2 cây đu đủ đang thu hoạch, giá 140.000đồng/cây x 2 cây = 280.000 đồng.

đồng.

. 5 cây dừa đang thu hoạch, giá ;246.500đồng/cây x 5 cây = 1.232.500 7. Nhà loại nhà cấp 4b: diện tích 42.14m2.

Kết cấu; Móng xây đá chẻ. Nền lát gạch bông, mái tôn lạnh, cửa gỗ; tỷ lệ còn lại 60%, Giá x 2.500.000đồng/m2 = 63.210.000đồng.

8. Mái che: diện tích 98,5m2.

Kết cấu: Trụ sắt. mái tôn, vĩ kèo sắt, nền bê tông, tỷ lệ còn lại 60%, Giá 741.000đồng/m2 = 43.793.100đồng.

Thửa đất 80d diện tích 394m2 theo trích lục, vị trí 1 giá 60.000đồng/m2;

đất trồng cây lâu năm = 23.640.000đồng.

Thửa đất số 20 và thửa đất số 21;

Thửa đất số 20, diện tích 1.702m2 và thửa đất số 21, diện tích 1.560m2, tờ bản đồ 27 bản đồ xã P, đất không bến động.

Tổng diện tích là 3.262m2 loi đất chuyên trồng lúa nước. Đất có vị trí 2: với giá 42.000đồng/m2.

- Căn cứ quyết định số14/2020/QĐ-UBND ngày 19 tháng 5 năm 2020 của UBND tỉnh Ninh Thuận ban hành giá đất trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận:

Thửa đất số 20 có diện tích 1.702m2, Giá: 42.000đồng/m2 = 71.484.000 đồng.

Tứ cận như sau:

Phía đông giáp mương; Phía tây giáp thửa đất số 19; Phía Nam giáp thửa đất số 51; Phía Bắc giáp thửa đất số 21.

Thửa đất số 21 có diện tích 1.560m2, Giá 42.000đồng/m2 = 65.520.000 đồng.

Tứ cận như sau:

Phía đông giáp mương; Phía tây giáp thửa đất số 19; Phía Nam giáp thửa đất số 21; Phía Bắc giáp thửa đất số 50 và thửa đất số 51.

- T2 bộ đất và tài sản do ông Thuận quản lý, riêng giàn mái che thửa đất 116, theo trích lục do ông K tạo dựng.

- Riêng mái che và cổng cửa sắt 2 nằm trên diện tích thửa 116b, 116c theo trích lục là do bà H tạo dựng.

- Riêng căn nhà và tài sản gắn liền trên thửa đất 80d theo trích lục là do bà L tạo dựng lúc cha mẹ còn sống cho bà và bà L tự xây dựng.

- Riêng căn nhà trên thửa đất 117d do bà Hằng, ông Anh con của ông T xây dựng có sự đồng ý của ông T.

(Kèm theo trích lục bản đồ 1500,1501,1502 ngày 28/6/2022 của văn phòng đất đai chi nhánh huyện N).

- Xét về di chúc của ông Nuôi để lại có một phần phù hợp và có một phần chưa phù hợp với Bộ luật dân sự 2015.

Cụ thể: căn nhà xây nằm trên diện tích khoảng 600m2, thực tế đo đạc 381m2 đất thổ cư thuộc thửa 80, tờ bản đồ số 27 là di sản của ông Nuôi, bà Mứ để lại; bà Mứ chết 2002 không để lại di chúc, ông Nuôi chết 2018 có để lại di chúc có sự chứng kiến của con và trong di chúc của ông để lại tài sản cho ông T các con không được tranh chấp; nên phần di sản của ông Nuôi đã cho ông T; còn phần di sản của bà Mứ chia theo pháp luật.

Đi với đất ruộng lúa thuộc thửa 20, có diện tích 1.702m2, thửa số 21 có diện tích 1.560m2, đất màu thuộc thửa 116, diện tích 857m2, thửa 117, diện tích 862m2 là đất cấp theo nhận khẩu hộ gia đình không phải di sản của ông Nuôi để lại, ông Nuôi có quyền cho ông T phần của ông, còn phần của các nhân khẩu khác ông Nuôi cho là chưa phù hợp pháp luật nên các thửa đất trên chia đều cho các nhân khẩu được cấp đất và chia di sản thừa kế của ông Nuôi, bà Mứ theo pháp luật.

Xét ông K và các người có quyền lợi nghĩa vụ L quan phía nguyên đơn yêu cầu Tòa án chia tài sản chung đất ruộng lúa thuộc thửa 20, có diện tích 1.702m2, thửa đất số 21 có diện tích 1.560m2, đất màu thuộc thửa 116, diện tích 857m2; thửa 117, diện tích 862m2 và chia thừa kế đất thổ cư gắn liền nhà diện tích 600m2, thực tế đo đạc 381m2 thuc thửa 27 là có căn cứ một phần.

Đi với thửa đất số: 80d, diện tích 394m2 đất trong sổ địa chính còn đứng tên ông Nuôi, ông Nuôi cho bà L nhưng chưa làm thủ tục chuyển quyền theo luật đất đai và gắn liền căn nhà do bà L tạo dựng nay ông T yêu cầu chia di sản thừa kế là có căn cứ một phần.

Tại phiên tòa các ông bà gồm: Trần Văn T1, sinh năm: 1965; Trần Thị Hồng L, sinh năm: 1968 (L chị chết) ông Bùi Khắc T1 Kế thừa quyền và nghĩa vụ, Trần Thị Hồng L (L em), sinh năm: 1971; Trần Thị H, sinh năm: 1981; Trần Thị L, sinh năm: 1974 ủy quyền cho ông K ngày 25-01-2021; Trần Văn H, sinh năm:1961 ủy quyền cho ông K ngày 29-10-2020; Trần Văn D, sinh năm: 1963 ủy quyền cho ông K ngày 21-02-2021 đã thừa nhận cha là ông Trần Văn Nuôi đã cho thửa đất số: 80d, diện tích 394m2 đất cho bà L, bà L đã xây nhà ở từ khi ông Nuôi còn sống và các ông bà này đồng ý giao cho bà L ở không tranh chấp. Riêng một mình ông T yêu cầu bà L chia diện tích đất trên.

Xét về nhân khẩu trong thời điển cấp đất Công an xã P xác nhận có 10 nhân khẩu gồm: Cha tên Trần Văn Nuôi, sinh năm: 1939, chết năm 2018, mẹ Lê Thị Mứ, sinh năm: 1940, chết năm 2002; có 9 người con tên Trần Văn D, sinh năm:

1963; Trần Văn T1, sinh năm: 1965; Trần Văn K, sinh năm: 1976; Trần Thị Hồng L (chị), sinh năm: 1968 (chết); Trần Thị Hồng L (Em), sinh năm: 1971; Trần Thị Hồng L, sinh năm: 1974; Trần Thị H, sinh năm: 1981.

Riêng ông Trần Văn H, sinh năm:1961 không có trong nhân khẩu năm 1988 Xét đất các thửa 20, có diện tích 1.702m2 đất ruộng,; thửa số 21, có diện tích 1.560m2 đt ruộng; tổng diện tích 3.262m2 là đất cấp theo nhân khẩu.

Hi đồng xét xử chia như sau:

Diện tích 3.262m2 : 10 nhân khẩu = 326.2m2 đất (Một nhân khẩu).

Xét về xuất thừa kế bà Trần Thị Hồng L (L Chị chết); Trần Thị Hồng L (L Em); Trần Thị Hồng L; Trần Thị H; Trần Văn D đồng ý giao cho K được quyền sử dụng nên ông K được nhận 6 xuất thừa kế có diện tích là 1.957.2m2- (cách tính: 326.2m2 x 6 xuất) trị giá 82.202.400 đồng (1.957.2m2 x 42.000đ).

Xét về xuất thừa kế của ông Trần Văn Nuôi theo di chúc ông Nuôi đồng ý giao cho ông T được quyền sử dụng nên ông T được nhận 2 xuất thừa kế là 652.4m2-(cách tính: 326.2m2 x 2 xuất) trị giá 27.420.000 đồng (652.4m2 x 42.000đ).

Xét về xuất thừa kế ông Trần Văn T1 được quyền sử dụng 326.2m2 (một xuất).

Nhưng về điện tích đất chia ông T1 nhỏ khó khăn trong việc canh tác Hội đồng xét xử giao cho ông T canh tác và buộc ông T hoàn trả bằng tiền cho ông T1, số tiền: 13.700.400đồng (cách tính: 42.000đ/m2 x 326.2m2) là phù hợp.

Xét về xuất thừa kế của bà Mứ có diện tích 326.2m2 : 10 nhân khẩu gồm: Trần Văn Nuôi, Trần Văn D, Trần Văn T1, Trần Văn K, Trần văn T, Trần Thị Hồng L (L chị), Trần Thị Hồng L (Em), Trần Thị Hồng L, Trần Thị H, Trần Văn H = 32.62m2 (một xuất) trị giá 1.370.040 đồng (32.62m2 x 42.000đ).

. Xét về các xuất thừa kế của Trần Thị Hồng L (L Chị, chết) ông Bùi Khắc T1 kế thừa quyền và nghĩa vụ; Trần Thị Hồng L (L Em); Trần Thị Hồng L; Trần Thị H; Trần Văn D; Trần Văn H các đồng thừa kế này đồng ý giao cho ông K được quyền sử dụng nên ông K được nhận 7 xuất thừa kế có diện tích là 228.34m2- (cách tính: 32.62m2 x 7 xuất) trị giá 9.590.280 đồng (228.34m2 x 42.000đ).

Xét về xuất thừa kế ông Trần Văn Nuôi theo di chúc đồng ý giao cho T được quyền sử dụng nên ông T được nhận 2 xuất thừa kế là 65.24m2-(cách tính:

32.62m2 x 2 xuất) trị giá 2.740.080 đồng (65.24m2 x 42.000đ).

Xét về xuất thừa kế ông Trần Văn T1 được quyền sử dụng 32.62m2 (mt xuất) trị giá 1.370.040 đồng (32.62m2 x 42.000đ)..

Nhưng về điện tích đất chia ông Trần Văn T1 nhỏ khó khăn trong việc canh tác Hội đồng xét xử giao cho ông T canh tác và buộc ông T hoàn trả bằng tiền cho ông T1 số tiền: 1.370.400đồng (cách tính: 42.000đ/m2 x 32.62m2) là phù hợp.

Tổng diện tích ông K được nhận là 2.185.54m2; ông T được nhận 1.076.46m2 Để thuận tiện cho việc canh tác Hội đồng xét xử, xử buộc ông Trần Văn T phải giao cho ông Trần Văn K được quyền sử dụng hợp pháp thửa đất số 20, diện tích 1.702m2, tờ số 27, bản đồ xã P; trị giá 71.484.000 đồng (1.702m2 x 42.000đ).

Giao cho ông Trần Văn T được quyền sử dụng hợp pháp thửa đất số 21, diện tích 1.560m2-, tờ số 27, bản đồ xã P; trị giá 45.212.320 đồng (1.560m2 - 483.54m2 x 42.000đ).

Buộc ông Trần Văn T phải bù chênh lệch tiền đất cho ông Trần Văn K số tiền 20.308.680đồng, trị giá 483.54m2 đất.(cách tính:1.560m2 - 1.076.46m2).

Buộc ông Trần Văn T phải hoàn trả tiền đất cho ông Trần Văn T1 số tiền 13.700.400 đồng, trị giá 326.4m2 đất và số tiền 1.370.400 đồng, trị giá 32.62m2.

- Xét về các thửa 116, diện tích 857m2, thực tế đo đạc diện tích 775m2 thửa 117, diện tích 862m2, thực tế đo đạc diện tích 834m2; tổng diện tích 1.609m2 là đất cấp theo nhân khẩu hộ gia đình các nhân khẩu yêu cầu được nhận tài sản là đất theo kỷ phần.

- Xét tổng diện tích thửa 116, 117 là: 1.609m2 : 10 nhân khẩu gồm Trần Văn Nuôi, Trần Văn D, Trần Văn T1, Trần Văn K, Trần Văn T, Trần Thị Hồng L (L chị) do ông Bùi Khắc T1 kế thừa, Trần Thị Hồng L (Em), Trần Thị Hồng L, Trần Thị H, Lê Thị Mứ = 160.9m2 đt (Một nhân khẩu) trị giá 9.654.000đ (60.000đ x 160.9m2).

- Để chia diện tích đất theo nhân khẩu tương ứng với trích lục và tài sản của các nhân khẩu gắn liền đất.

Hi đồng xét xử chia như sau:

Buộc ông Trần Văn T chia cho ông Trần Văn K thửa 116 gắn liền diện tích 115 m2 đất, so với diện tích đất cấp theo nhân khẩu ông K còn thiếu 45.9m2 (cách tính: 160.9m2 theo nhân khẩu – 115 theo trích lục);

Giao ông Trần Văn K được sở hữu T2 bộ tài sản trên thửa đất 116 gồm: Mái che (do ông K tạo dựng).

. Chia cho ông Trần Văn T thửa 116a gắn liền diện tích 198 m2 đất, so với diện tích đất cấp theo nhân khẩu ông T còn thừa 37.1m2 (cách tính: 198m2 đất theo trích lục -160.9m2 đất theo nhân khẩu); Buộc ông Trần Văn T bù tiền diện tích đất nhận nhiều hơn ông K chênh lệch 37.1m2 số tiền 2.226.000 đồng (cách tính; 60.000đ/m2 x 37.1m2).

Giao ông Trần Văn T được sở hữu T2 bộ tài sản trên thửa đất 116a gồm: nhà từ đường do cha mẹ tạo dựng và cổng 1, mái che, nhà bếp do ông T tạo dựng.

. Chia cho bà Trần Thị H thửa 116b diện tích 76m2 đt, thửa 116c diện tích 74m2 đất tổng 2 thửa có diện tích 150m2 đất, so với diện tích cấp theo nhân khẩu bà H còn thiếu 10.9m2 (cách tính: 160.9m2 đất theo nhân khẩu - 150m2 đất theo trích lục);

Giao bà H được sở hữu T2 bộ tài sản trên thửa đất 116b, 116c gồm : cổng 2, mái che (do bà H tạo dựng).

. Chia cho bà Trần Thị L (L em) thửa 117 gắn liền diện tích 171m2 đất, so với diện tích cấp theo nhân khẩu bà L (L em) còn thừa 10.1m2 (cách tính:

171m2 đất theo trích lục - 160.9m2 đất theo nhân khẩu); Buộc bà Trần Thị L (L em) bù tiền diện tích đất nhận nhiều hơn bà H chênh lệch 10.1m2 số tiền 606.000 đồng (cách tính; 60.000đ/m2 x 10.1m2).

Buộc ông Trần Văn D bù tiền đất nhận nhiều hơn cho bà H diện tích 0.8m2 số tiền 48.000 đồng (cách tính; 60.000đ/m2 x 0.8m2) . Chia cho bà Trần Thị L thửa 116d gắn liền diện tích 156m2 đất, so với diện tích cấp theo nhân khẩu bà L còn thiếu 4.9m2 (cách tính: 160.9m2 đt theo nhân khẩu - 156m2 đất theo trích lục);

. Chia cho bà Lê Thị Mứ thửa 117a gắn liền diện tích 171m2 đất, so với diện tích cấp theo nhân khẩu bà Lê Thị Mứ còn thừa 10.1m2 (cách tính: 171m2 đất theo trích lục - 160.9m2 đất theo nhân khẩu); Buộc bà Lê Thị Mứ bù tiền diện tích đất nhận nhiều hơn bà L chênh lệch 4.9m2 số tiền 294.000 đồng (cách tính; 60.000đ/m2 x 4.9m2); hiện nay bà Mứ đã chết di sản của bà Mứ chia cho 10 người (cách tính: 160.9m2 : 10 = 16.09m2) nhưng xét diện tích đất chia phần theo nhân khẩu của ông K nhỏ có 115m2 và các nhân khẩu trong hộ tin tưởng ông K ủy quyền cho ông quyết định các vấn đề L quan đến tài sản nên hội đồng xét xử giao diện tích đất cấp theo nhân khẩu của bà Mứ cho ông K được quyền sử dụng và buộc ông K hoàn trả tiền đất cho 9 người gồm: Trần Văn Nuôi do ông T nhận theo tặng cho, Trần Văn D, Trần Văn T1, Trần Văn T, Trần Thị Hồng L (chị) do ông Bùi Khắc T1 kế thừa, Trần Thị Hồng L (Em), Trần Thị Hồng L, Trần Thị H, Trần Văn H mỗi nhân khẩu 965.400đồng (cách tính: 60.000 x 16.09m2); Buộc ông Trần Văn K bù tiền diện tích đất nhận nhiều hơn bà L chênh lệch 4.9m2 số tiền 294.000 đồng (cách tính; 60.000đ/m2 x 4.9m2).

Ông K nhận xuất của bà Mứ còn thừa 5.2 m2 nhưng được khấu trừ vào xuất của ông K được nhận còn thiếu 5.2m2.

. .Chia cho bà Trần Thị Hồng L (L chị) thửa 116e gắn liền diện tích 156m2 đất, so với diện tích cấp theo nhân khẩu bà L còn thiếu 4.9m2 (cách tính:

160.9m2 đt theo nhân khẩu - 156m2 đt theo trích lục);

. Chia cho ông Trần Văn D thửa 117b gắn liền diện tích 171m2 đất so với diện tích cấp theo nhân khẩu ông Trần Văn D còn thừa 10.1m2 (cách tính:

171m2 đất theo trích lục - 160.9m2 đất theo nhân khẩu); Buộc ông Trần Văn D bù tiền diện tích đất nhận nhiều hơn bà L (L chị) chênh lệch 4.9m2 số tiền 294.000 đồng (cách tính; 60.000đ/m2 x 4.9m2); hiện nay bà L (L chị) đã chết di sản của bà L chị do ông Bùi Khắc T1 (chồng bà L); Bùi Mnh T, sinh năm: 1987 (con bà L); Bùi Thị Diễm M, sinh năm: 1989 (con bà L); Bùi Mnh T2, sinh năm: 1992 (con bà L) là người kế thừa quyền và nghĩa vụ được nhận; Buộc ông Trần Văn D bù tiền diện tích đất nhận nhiều hơn cho ông K 3.6m2 số tiền 216.000 đồng (cách tính; 60.000đ/m2 x 3.6m2);

. Chia cho ông Trần Văn Nuôi thửa 117d gắn liền diện tích 149m2 đất, so với diện tích cấp theo nhân khẩu ông Nuôi còn thiếu 11.9m2 (cách tính: 160.9m2 đất theo nhân khẩu - 149m2 đất theo trích lục);

. Chia cho ông Trần Văn T1 thửa 117c gắn liền diện tích 172m2 đất, so với diện tích cấp theo nhân khẩu ông Trần Văn T1 thừa 11.1m2 (cách tính: 172m2 đất theo trích lục -160.9m2 đất theo nhân khẩu); Buộc ông Trần Văn T1 bù tiền diện tích đất nhận nhiều hơn ông Nuôi chênh lệch 11.1m2 số tiền 666.000 đồng (cách tính; 60.000đ/m2 x 11.1m2); hiện nay ông Nuôi đã chết di sản của ông Nuôi tặng cho ông T theo di chúc nên ông T được nhận khoản bù chênh lệch; Nhưng về diện tích 149m2 ông T được hưởng từ tặng cho theo di chúc của ông Nuôi, ông T đã tặng cho vợ chồng bà Trần Thị Như Hằng, ông Lê T1 Anh, vợ chồng bà Hằng, ông Anh đã xây nhà ở; tại phiên tòa ông T đồng ý tặng cho vợ chồng bà Hằng, ông Anh Hội đồng xét xử xét thấy có căn cứ chấp nhận.

Giao cho vợ chồng bà Hằng, ông Anh được quyền sử dụng 149m2 đất do ông T nhận từ tặng cho theo di chúc của ông Nuôi để lại và ông T đã tặng cho vợ chồng bà Hằng, ông Anh.

Giao vợ chồng bà Trần Thị Như Hằng, ông Lê T1 Anh được sở hữu T2 bộ tài sản trên thửa đất 117d gồm: căn nhà cấp 4A, mái che, tường rào (do vợ chồng bà Hằng, ông Anh tạo dựng).

Buộc ông Trần Văn D bù tiền diện tích đất nhận nhiều hơn cho ông Nuôi 0.8m2 số tiền 48.000 đồng (cách tính; 60.000đ/m2 x 0.8m2) và ông T được nhận theo di chúc tặng cho của ông Nuôi;

- Đối với đất thổ cư của ông Nuôi, bà Mứ tại phiên tòa xác định thuộc thửa 80, tờ bản đồ 27 diện tích đo thực tế 381m2 trị giá 22.800.000 đồng gắn liền căn nhà cấp 4b trị giá 70.680.000 đồng, theo di chúc ông Nuôi để lại có nội dung: “Ông Nuôi giao cho ông T trông coi, thờ cúng, không được mua - bán hay sang nhượng, hoán đổi; tất cả các thành viên con của ông không có quyền tranh chấp”; nên phần di sản của ông Nuôi đã cho ông T là có căn cứ. Hơn nữa ông T vẫn ở thờ cúng không có mua- bán, sang nhượng và ông T có 01căn nhà ông đang ở là nơi ở duy nhất và trên đất ông T có xây dựng 01 căn nhà cấp 4c, nhà bếp, mái che gắn liền nhà từ đường do ông T tạo dựng.

Hi đồng xét xử xử chia như sau:

Di sản của ông Nuôi, bà Mứ để lại căn nhà cấp 4b và 381m2 đất trị giá 70.860.000 đồng : 2 người = 35.430.000 đồng.

Phần ông Nuôi được chia 1/2 giá trị tài sản trị giá 35.430.000 đồng; ông Nuôi cho ông T nên ông T được nhận.

Phần bà Mứ được chia 1/2 trị giá 35.430.000 đồng : 10người = 3.354.000 đồng (một xuất).

Nhưng hiện nay ông T đang được sở hữu 2/3 giá trị tài sản gồm phần ông Nuôi cho theo di chúc trị giá 35.430.000 đồng, phần bà Mứ cho theo pháp luật trị giá 3.354.000 đồng, phần ông Nuôi hưởng phần bà Mứ cho ông T trị giá 3.354.000 đồng, phần ông Trần Văn Tuần cho ông T trị giá 3.354.000 đồng, tổng cộng: 48.936.000 đồng; nên giao cho ông T được quyền sở hữu T2 bộ tài sản trên và buộc ông T hoàn trả tiền giá trị tài sản cho 7 người gồm: Trần Văn D, Trần Văn K, Trần Thị Hồng L (L Chị chết) do ông Bùi Khắc T1 kế thừa, Trần Thị Hồng L (L Em), Trần Thị Hồng L, Trần Thị H, Trần Văn H mỗi người 3.354.000 đồng; 7 người đồng thừa kế cho ông K nên ông K được nhận 23.478.000 đồng (3.354.000 đ x 7);

- Đi với thửa đất số: 80d, diện tích 394m2 đất, trị giá 23.640.000 đồng gắn liền căn nhà do bà L tạo dựng lúc ông Nuôi còn sống, trong đó các người đồng thừa kế thừa nhận không yêu cầu chia, riêng ông T, ông Trần Văn T1 yêu cầu chia và ông T cho rằng khi ông Nuôi cho bà L chưa làm thủ tục chuyển quyền sử dụng; Hội đồng xét thấy yêu cầu của ông T là có căn cứ.

Hi đồng xét xử, xử chia như sau:

Di sản của ông Nuôi, bà Mứ để lại trị giá 23.640.000 đồng : 9 người = 2.626.600đồng (làm tròn mỗi người).

Phần 7 đồng thừa kế ủy quyền cho ông K thừa nhận ông Nuôi đã cho bà L không yêu cầu chia, riêng cá nhân ông T, ông Trần Văn T1 yêu cầu chia nên buộc bà L hoàn trả tiền cho ông T, ông Trần Văn T1 mỗi người số tiền 2.626.600 đồng.

Giao bà L được quyền sử dụng hợp pháp thửa đất số: 80d, diện tích 394m2 đất, tờ bản đồ 27 xã P và sở hữu căn nhà gắn liền đất do bà L tạo dựng (đất và tài sản hiện bà L đang quản lý, sở hữu).

Qua ý kiến và đề nghị của kiểm sát viên tại phiên tòa Hội đồng xét xử sơ thẩm chấp nhận yêu cầu quan điểm giải quyết vụ án của Kiểm sát viên tại phiên tòa.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 649, Điều 650, Điều 651, Điều 652, Điều 656, Điều 657, Điều 660, điểm c Điều 688 Bộ luật dân sự 2015; khoản 1 Điều 165, khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14, ngày 30- 12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Chấp một phần yêu cầu của đồng nguyên đơn về yêu cầu chia thừa kế, yêu cầu chia tài sản chung:

Buộc ông Trần Văn T chia cho ông Trần Văn K được quyền sử dụng thửa đất số 20, tờ bản đồ số 27, diện tích 1.702m2,-bản đồ địa chính xã P, huyện N, tỉnh Ninh Thuận; trị giá 71.484.000 đồng (1.702m2 x 42.000đ) do ông T quản lý.

Chia ông Trần Văn T được quyền sử dụng thửa đất số 21, tờ bản đồ số 27, diện tích 1.560m2,- bn đồ địa chính xã P, huyện N, tỉnh Ninh Thuận.

Buộc ông Trần Văn T bù chênh lệch cho ông Trần Văn K số tiền 20.308.680 đồng (trị giá 483.54m2 đất x 42.000 đồng).

(Thực tế ông T được chia diện tích đất 1.076.46m2, trị giá 45.211.320 đồng (cách tính 1.560m2 – 483.54m2 = 1.076.46m2).

Buộc ông Trần Văn T hoàn trả tiền cho ông Trần Văn T1 số tiền 15.070.800 đồng, trị giá 359.02m2 đất (326.4m2 đất + 32.62m2).

Buộc ông Trần Văn T chia cho ông Trần Văn K thửa 116 có diện tích 115 m2 đất, Giao ông Trần Văn K được sở hữu T2 bộ tài sản trên thửa đất 116 gồm: Mái che do ông K tạo dựng.

Chia cho ông Trần Văn T thửa 116a có diện tích 198m2 đất (đất hiện ông T đang quản lý).

Buộc ông Trần Văn T bù tiền diện tích đất nhận nhiều hơn ông K chênh lệch 37.1m2 số tiền 2.226.000 đồng (cách tính; 60.000đ/m2 x 37.1m2).

Giao ông Trần Văn T được sở hữu T2 bộ tài sản trên thửa đất 116a gồm:

cổng 1, mái che, nhà bếp, cây trồng do ông T tạo dựng.

Buộc ông Trần Văn T chia cho bà Trần Thị H thửa 116b, diện tích 76m2 đất; thửa 116c diện tích 74m2 đất, tổng diện tích 150m2 đất.

Giao bà H được sở hữu T2 bộ tài sản trên thửa đất 116b, 116c gồm: cổng 2, mái che do bà H tạo dựng.

Buộc ông Trần Văn T chia cho bà Trần Thị L (L em) thửa 117 có diện tích 171m2 đất.

Buộc bà Trần Thị L (L em) bù tiền diện tích đất nhận nhiều hơn bà H chênh lệch 10.1m2, số tiền 606.000 đồng (cách tính; 60.000đ/m2 x 10.1m2).

Buộc ông Trần Văn D bù tiền đất nhận nhiều hơn cho bà H diện tích 0.8m2 số tiền 48.000 đồng (cách tính; 60.000đ/m2 x 0.8m2) Buộc ông Trần Văn T chia cho bà Trần Thị Hồng L thửa 116d có diện tích 156m2 đất.

Buộc ông Trần Văn T chia cho ông Trần Văn K thửa 117a có diện tích 171m2 đất (phần được hưởng từ xuất của bà bà Lê Thị Mứ).

Buộc ông Trần Văn K bù tiền diện tích đất nhận nhiều hơn bà L chênh lệch 4.9m2 số tiền 294.000 đồng (cách tính; 60.000đ/m2 x 4.9m2) (phần ông K được hưởng từ xuất của bà Lê Thị Mứ);

Buộc ông Trần Văn K hoàn trả tiền đất cho 9 người gồm: Trần Văn Nuôi do T nhận từ tặng cho, Trần Văn T1, Trần Văn D, Trần Văn T, Trần Thị Hồng L (L Chị) do ông Bùi Khắc T1 kế thừa, Trần Thị Hồng L (L Em), Trần Thị Hồng L, Trần Thị H, Trần Văn H mỗi nhân khẩu 965.400đồng (cách tính:

60.000 x 16.09m2.

Ông Trần Văn K được hưởng từ đất của bà Mứ còn thừa 5.2m2 và được khấu trừ vào xuất của ông K được nhận còn thiếu 5.2m2.

. Buộc ông Trần Văn T chia cho các bà, ông Bùi Khắc T1 (chồng bà L); Bùi Mnh T (con bà L); Bùi Thị Diễm M (con bà L); Bùi Mnh T2 (con bà L) là người kế thừa quyền và nghĩa vụ của bà Trần Thị Hồng L (L chị) thửa đất 116e có diện tích 156m2.

Buộc ông Trần Văn T chia cho ông Trần Văn D thửa 117b có diện tích 171m2 đất.

Buộc ông Trần Văn D bù tiền diện tích đất nhận nhiều hơn chênh lệch 4.9m2 số tiền 294.000 đồng (cách tính: 60.000đ/m2 x 4.9m2) cho ông Bùi Khắc T1; Bùi Mnh T; Bùi Thị Diễm M; Bùi Mnh T2 là người kế thừa quyền và nghĩa vụ của bà Trần Thị Hồng L (L chị) nhận;.

Buộc ông Trần Văn D bù tiền diện tích đất nhận nhiều hơn cho ông K chênh lệch 3.6m2 số tiền 216.000 đồng (cách tính; 60.000đ/m2 x 3.6m2);

Buộc ông Trần Văn T chia cho ông Trần Văn T1 thửa 117c gắn liền diện tích 172m2 đất.

Buộc ông Trần Văn T1 bù tiền diện tích đất nhận nhiều hơn cho ông Nuôi chênh lệch 11.1m2 số tiền 666.000 đồng (cách tính; 60.000đ/m2 x 11.1m2) và ông T được nhận theo di chúc tặng cho của ông Nuôi.

Buộc ông Trần Văn T chia cho vợ chồng bà Trần Thị Như Hằng, ông Lê T1 Anh thửa 117d gắn liền diện tích 149m2 đt do ông T được hưởng từ di chúc của ông Nuôi tặng cho vợ chồng trị giá 8.940.000 đồng.(cách tính; 60.000đ/m2 x 149m2) Giao cho vợ chồng bà Trần Thị Như Hằng, ông Lê T1 Anh được quyền sử dụng 149m2 đất do ông T nhận từ tặng cho theo di chúc của ông Nuôi để lại và ông T đã tặng cho vợ chồng bà Hằng, ông Anh.

Giao vợ chồng bà Trần Thị Như Hằng, ông Lê T1 Anh được sở hữu T2 bộ tài sản trên thửa đất 117d gồm: căn nhà cấp 4a, mái che, tường rào (do vợ chồng bà Hằng, ông Anh tạo dựng).

Buộc ông Trần Văn D bù tiền diện tích đất nhận nhiều hơn cho ông Nuôi 0.8m2 số tiền 48.000 đồng (cách tính; 60.000đ/m2 x 0.8m2) và ông T được nhận theo di chúc tặng cho của ông Nuôi.

Giao cho ông T được quyền sở hữu T2 bộ thửa đất số 80, tờ bản đồ 27, diện tích đo thực tế 381m2 trị giá 22.680.000 đồng gắn liền nhà cấp 4b do ông Nuôi, bà Mứ tạo dựng trị giá 48.000.000 đồng, tổng cộng: 70.680.000 đồng và gắn liền tài sản của ông T, bà U tạo dựng gồm nhà cấp 4c, nhà bếp, mái che, cây trồng (tài sản hiện ông T đang quản lý), Buộc ông T hoàn trả tiền giá trị tài sản phần hưởng từ thửa đất 80 cho 7 người gồm: Trần Văn D, Trần Văn K, Trần Thị Hồng L (L Chị chết) do ông Bùi Khắc T1, Bùi Mnh T; Bùi Thị Diễm M; Bùi Mnh T2 là người kế thừa quyền và nghĩa vụ của bà Trần Thị Hồng L (L chị); Trần Thị Hồng L (L Em), Trần Thị L, Trần Thị H, Trần Văn H mỗi người 3.354.000 đồng.

Giao cho bà Trần Thị L được sử dụng thửa đất số: 80d, diện tích 394m2 đất, tờ bản đồ 27 xã P, trị giá 23.640.000 đồng và sở hữu căn nhà gắn liền đất do bà L tạo dựng (đất và tài sản hiện bà L đang quản lý, sở hữu).

Buộc bà Trần Thị L hoàn tiền cho ông Trần Văn T, ông Trần Văn T1 mỗi người số tiền 2.626..600 đồng.(trị giá 1 xuất thừa kế cách tính: 23.640.000 đồng : 9).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lăi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.

Về chi phí định giá: Ông K đã nộp tạm ứng 2.900.000 đồng chi phí định giá và 11.200.350 đồng tiền chi phí cấp trích lục, tổng cộng: 14.100.350 đồng đã chi phí hết.

Hi đồng xét xử xét thấy nên chia cho những người được nhận di sản theo kỷ phần cùng chịu khoản chi phí này.

Cụ thể: Buộc các ông, bà gồm: Trần Văn T, Trần Văn D, Trần Văn T1, Trần Văn K, Trần Thị Hồng L (L Chị chết) do ông Bùi Khắc T1 là người kế thừa, Trần Thị Hồng L (L Em), Trần Thị L, Trần Thị H, Trần Văn H mỗi người phải chịu 1.566.705 đồng (cách tính: 14.100.350 đồng : 9). Để hoàn trả cho ông Trần Văn K.

Về án phí:

- Mễn T2 bộ án phí cho ông Trần Văn H, do ông H là người cao tuổi;

Buộc các ông, bà gồm:

-Trần Văn K phải chịu 6.413.934 đồng (cách tính: giá trị của 1.702m2 đt, trị giá 71.484.000đ + giá trị 483.54m2 đất, trị giá 20.308.680đ + giá trị 160.9m2 đất, trị giá 9.654.000đ + 23.478.000đ giá trị hưởng tài sản từ thửa 80 + 4.417.500đ) x 5%. Nhưng được khấu trừ vào số tiền 21.750.000 đồng ông K đã nộp tạm ứng án phí biên lai 0025402, ngày 15/12/2020 của chi cục thi hành án N, hoàn trả cho ông K số tiền 16.456.791 đồng.

-Trần Văn T phải chịu 5.172.566 đồng {(cách tính: giá trị của 1.076.64m2 đất, trị giá 45.211.320đ + giá trị 160.9m2 đất 9.654.000đ + 2.626.600đ + 48.936.000đ giá trị hưởng tài sản từ thửa 80 và + giá trị 160.9m2 đất trị giá 9.654.000đ + 965.400đ hưỡng từ phần ông Nuôi) x 5%.

- Trần Văn T1 phải chịu 1.415.840 đồng, (cách tính: giá trị của 359.02m2 đất, trị giá 15.070.800đ + 965.400đ + 2.626.600đ + giá trị 160.9m2 đất trị giá 9.654.000đ) x 5%.

-Trần Văn D phải chịu 428.700 đồng (cách tính: 9.654.000đ x 5%).

- Ông Bùi Khắc T1 là người kế thừa quyền, nghĩa vụ của bà, Trần Thị Hồng L (L Chị chết) phải chịu 428.700 đồng (cách tính: 9.654.000đ x 5%.

- Trần Thị Hồng L (L Em) phải chịu 428.700 đồng (cách tính: 9.654.000đ x 5%).

- Trần Thị H phải chịu 428.700 đồng (cách tính: 9.654.000đ x 5%).

- Trần Thị L phải chịu 1.402.000 đồng {(cách tính: 18.386.668đ (23.640.000đ – 2.626.600 hoàn trả T – 2.626.600 hoàn trả T1) + 9.654.000đ )} x 5%.

- Vợ chồng Trần Thị Như Hằng và Lê T1 Anh (vợ chồng) phải chịu 447.000 đồng (cách tính: 8.940.000đ x 5%).

….Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.

Buộc ông Trần Văn H phải giao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên ông Trần Văn Nuôi (bản chính) do Ủy ban nhân dân huyện N cấp ngày 03-04- 1999 để các bên đến cơ quan có thẩm quyền làm thủ tục đăng ký quyền sử dụng đất hợp pháp khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Các đương sự L hệ với cơ quan có thẩm quyền quản lý đất đai để làm thủ tục đăng ký quyển sử dụng đất theo quy định của pháp luật khi bản án có hiệu lực pháp luật.

(Kèm theo trích lục đo đạc chỉnh lý số: 1500,1501,1502, ngày 28-6-2022 của Văn phòng đăng ký đất đai Ninh Thuận, chi nhánh huyện N).

Án xử công khai sơ thẩm có mặt nguyên đơn, bị đơn, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn, người đại diện theo ủy quyền của người có quyền lợi nghĩa vụ L quan. Báo cho những người có mặt biết quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng người vắng măt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tống đạt bản án theo thủ tục tố tụng.

 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

345
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 39/2022/DS-ST về tranh chấp yêu cầu chia tài sản chung hộ gia đình và chia thừa kế

Số hiệu:39/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ninh Sơn - Ninh Thuận
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 20/12/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;