Bản án về tranh chấp yêu cầu bồi thường thiệt hại sức khỏe số 163/2024/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KẾ SÁCH, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 163/2024/DS-ST NGÀY 06/08/2024 VỀ TRANH CHẤP YÊU CẦU BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI SỨC KHỎE

Ngày 06 tháng 8 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 266/2024/TLST-DS ngày 10 tháng 6 năm 2024 về việc tranh chấp yêu cầu bồi thường thiệt hại về sức khỏe, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 324/2024/QĐXXST-DS ngày 16 tháng 7 năm 2024, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông M. Địa chỉ: Ấp A1, xã B1, huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng. (có mặt)

2. Bị đơn: Ông K. Địa chỉ: Ấp A, xã B, huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng. (có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện đề ngày 14/5/2024 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn ông M trình bày: Vào chiều tối ngày 13/02/2024, ông M chạy xe từ ấp 5 về ấp A, xã B. Khi đến gần nhà ông K, ông M dừng xe lại nghe điện thoại và nói chuyện điện thoại lớn tiếng, ông K mới ra kêu ông M nói chuyện nhỏ để cho con ông K ngủ, sau đó hai bên có cự cãi dẫn đến xảy ra xô xát, ông K dùng tay đấm túi bụi vào vùng đầu, vùng trán và vùng mặt của ông M gây chảy máu rất nhiều, gia đình đưa ông M đến Bệnh viện Quân y 121 Cần Thơ điều trị đến ngày 19/02/2024 thì ông M được xuất viện.

Sự việc sau đó được Công an xã B giải quyết, ông M yêu cầu ông K bồi thường cho ông M với số tiền là 14.929.151 đồng, nhưng ông K chỉ đồng ý bồi thường cho ông M với số tiền là 3.529.150 đồng nên hòa giải không thành.

Theo đơn khởi kiện đề ngày 14/5/2024, ông M yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông K bồi thường cho ông M với số tiền là 14.929.151 đồng, bao gồm: Tiền thuốc là 47.545 đồng + 13.200 đồng + 39.600 đồng + 715.894 đồng + 2.712.912 đồng = 3.529.151 đồng; Tiền công lao động của người bệnh 07 ngày từ ngày 13/02/2024 đến ngày 19/02/2024 là 300.000 đồng/ngày x 07 ngày = 2.100.000 đồng; Tiền công lao động của người nuôi bệnh 07 ngày từ ngày 13/02/2024 đến ngày 19/02/2024 là 300.000 đồng/ngày x 07 ngày = 2.100.000 đồng; Tiền tổn thất tinh thần 04 tháng là 1.800.000 đồng/tháng x 04 tháng = 7.200.000 đồng.

Theo biên bản hòa giải ngày 16/7/2024, ông M rút lại một phần nội dung yêu cầu khởi kiện về bồi thường tiền tổn thất tinh thần 04 tháng với số tiền là 7.200.000 đồng, chỉ còn yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông K bồi thường cho ông M với số tiền là 7.729.151 đồng, bao gồm: Tiền thuốc là 47.545 đồng + 13.200 đồng + 39.600 đồng + 715.894 đồng + 2.712.912 đồng = 3.529.151 đồng; Tiền công lao động của người bệnh 07 ngày từ ngày 13/02/2024 đến ngày 19/02/2024 là 300.000 đồng/ngày x 07 ngày = 2.100.000 đồng; Tiền công lao động của người nuôi bệnh 07 ngày từ ngày 13/02/2024 đến ngày 19/02/2024 là 300.000 đồng/ngày x 07 ngày = 2.100.000 đồng.

Đối với yêu cầu phản tố của ông K, ông M đồng ý bồi thường cho ông K với số tiền là 1.307.456 đồng, bao gồm: Tiền thuốc là 407.456 đồng; Tiền công lao động của người bệnh 03 ngày từ ngày 14/02/2024 đến ngày 16/02/2024 là 300.000 đồng/ngày x 03 ngày = 900.000 đồng.

* Theo đơn phản tố đề ngày 24/6/2024 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn ông K trình bày: Vào khoảng 21 giờ ngày 13/02/2024, ông M chạy xe máy xuống nhà ông K, đứng trước cửa nhà ông K nói chuyện lớn. Ông K mới chạy ra nói với ông M rằng ông M có muốn nói, muốn chửi ai thì đi chỗ khác còn chỗ này con ông K ngủ. Sau đó ông M chửi thề và nói rằng mày muốn gì thì ra đây nè. Ông K mới bước ra ngoài nói chuyện với ông M thì ông M xô ông K té xuống, rồi hai bên xảy ra xô xát. Ông M dùng tay đánh vào đầu, đấm vào ngực, xô đẩy ông K té xuống đường đal làm cho ngực ông K bị bầm, bầm ở vùng xương chậu, tổn thương vùng đầu gối 02 bên. Vì bị đánh phủ đầu nên ông K có đánh lại ông M để tự vệ, ông M cũng có ý định sinh sự với ông K khi ông M xuống nhà ông K vào lúc ban đêm và đã đứng trước cửa nhà ông K chửi bới một hồi lâu nhằm mục đích thu hút sự chú ý và kích động ông K. Sau khi bị hành hung, ông K đã nhập viện để khám bệnh vào ngày 14/02/2024 tại Bệnh viện Đa khoa thành phố Ngã Bảy với chuẩn đoán: T00 - Tổn thương nông tác động nhiều vùng cơ thể; (W50) Bị người khác đấm, đá, vặn, cắn, cào.

Theo đơn phản tố đề ngày 24/6/2024, ông K yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông M bồi thường cho ông K với số tiền là 1.307.456 đồng, bao gồm: Tiền thuốc là 407.456 đồng; Tiền công lao động của người bệnh 03 ngày từ ngày 14/02/2024 đến ngày 16/02/2024 là 300.000 đồng/ngày x 03 ngày = 900.000 đồng.

Đối với yêu cầu khởi kiện của ông M, ông K đồng ý bồi thường cho ông M với số tiền là 3.529.151 đồng, bao gồm: Tiền thuốc là 47.545 đồng + 13.200 đồng + 39.600 đồng + 715.894 đồng + 2.712.912 đồng = 3.529.151 đồng. Đối với tiền công lao động của người bệnh và của người nuôi bệnh 07 ngày từ ngày 13/02/2024 đến ngày 19/02/2024 với số tiền là 4.200.000 đồng thì ông K không đồng ý bồi thường cho ông M, do mức độ thương tích của ông M không đến mức phải nằm viện điều trị dài ngày. Đối với việc ông M rút lại một phần nội dung yêu cầu khởi kiện về bồi thường tiền tổn thất tinh thần 04 tháng với số tiền là 7.200.000 đồng thì ông K không có ý kiến.

Tại phiên tòa sơ thẩm, ông M vẫn giữ nguyên nội dung yêu cầu khởi kiện đã được rút lại một phần tại phiên hòa giải ngày 16/7/2024; ông K vẫn giữ nguyên nội dung yêu cầu phản tố; các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ nội dung vụ án.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân huyện Kế Sách về việc tuân thủ và chấp hành pháp luật tố tụng dân sự của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án. Về nội dung vụ án, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông M và chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của ông K, giải quyết buộc ông K bồi thường cho ông M và buộc ông M bồi thường cho ông K dựa trên mức độ lỗi của hai bên.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, theo phát biểu và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Kế Sách, người tham gia tố tụng, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Theo đơn khởi kiện và đơn phản tố, ông M yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông K bồi thường thiệt hại về sức khỏe cho ông M, còn ông K yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông M bồi thường thiệt hại về sức khỏe cho ông K; Tòa án nhân dân huyện Kế Sách thụ lý vụ án, xác định quan hệ pháp luật tranh chấp yêu cầu bồi thường thiệt hại về sức khỏe là đúng theo quy định tại khoản 6 Điều 26 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Ông K là bị đơn, có địa chỉ cư trú tại ấp A, xã B, huyện Kế Sách; Tòa án nhân dân huyện Kế Sách thụ lý, giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[3] Theo đơn khởi kiện, ông M yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông K bồi thường cho ông M với số tiền là 14.929.151 đồng. Tuy nhiên, tại phiên hòa giải ngày 16/7/2024 ông M rút lại một phần nội dung yêu cầu khởi kiện về bồi thường tiền tổn thất tinh thần 04 tháng với số tiền là 7.200.000 đồng, chỉ còn yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông K bồi thường cho ông M với số tiền là 7.729.151 đồng. Xét thấy, việc rút lại một phần nội dung yêu cầu khởi kiện của ông M là hoàn toàn tự nguyện và phù hợp theo quy định tại khoản 2 Điều 244 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, nên Hội đồng xét xử chấp nhận và đình chỉ xét xử đối với phần yêu cầu khởi kiện mà ông M đã rút này.

[4] Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại: Trong quá trình giải quyết vụ án, ông M và ông K đều thừa nhận vào tối ngày 13/02/2024, tại ấp A, xã B, huyện Kế Sách xuất phát từ mâu thuẫn cá nhân mà ông M và ông K đã có hành vi xô xát, đánh nhau gây ra thương tích cho cả hai bên, dẫn đến việc sau đó ông M và ông K phải đến các cơ sở y tế để điều trị thương tích. Sự thừa nhận của ông M và ông K nêu trên là các tình tiết, sự kiện mà các đương sự không phải chứng minh theo quy định tại khoản 2 Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Hiện nay, ông K đồng ý bồi thường thiệt hại về sức khỏe cho ông M và ông M cũng đồng ý bồi thường thiệt hại về sức khỏe cho ông K. Như vậy, việc ông M và ông K xô xát, đánh nhau gây ra thương tích đã làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại về sức khỏe của ông K đối với ông M và của ông M đối với ông K theo quy định tại các Điều 584, 585, 586, 590 Bộ luật Dân sự năm 2015, các Điều 2, 3, 7 Nghị quyết số 02/2022/NQ-HĐTP ngày 06/9/2022 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Dân sự về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.

[5] Về thiệt hại được bồi thường: Ông M thống nhất về chi phí điều trị thương tích mà ông K đưa ra là 1.307.456 đồng, bao gồm: Tiền thuốc là 407.456 đồng; Tiền công lao động của người bệnh 03 ngày từ ngày 14/02/2024 đến ngày 16/02/2024 là 300.000 đồng/ngày x 03 ngày = 900.000 đồng và đồng ý bồi thường. Ông K thống nhất về chi phí điều trị thương tích mà ông M đưa ra là 3.529.151 đồng, bao gồm: Tiền thuốc là 47.545 đồng + 13.200 đồng + 39.600 đồng + 715.894 đồng + 2.712.912 đồng = 3.529.151 đồng và đồng ý bồi thường; Tuy nhiên, về tiền công lao động của người bệnh và của người nuôi bệnh 07 ngày từ ngày 13/02/2024 đến ngày 19/02/2024 với số tiền là 4.200.000 đồng mà ông M đưa ra thì ông K không thống nhất và không đồng ý bồi thường. Xét thấy, việc ông M nằm viện để điều trị thương tích trong khoảng thời gian 07 ngày từ ngày 13/02/2024 đến ngày 19/02/2024 tại Bệnh viện Quân y 121 và có người nuôi bệnh là sự việc có thật, thể hiện qua nội dung Giấy ra viện và Giấy chứng nhận thương tích cùng ngày 19/02/2024 của Bệnh viện Quân y 121 cùng sự xác nhận của ông T là người nuôi bệnh ông M trong khoảng thời gian này, cho nên việc ông K không thống nhất và không đồng ý bồi thường tiền công lao động của người bệnh và của người nuôi bệnh 07 ngày từ ngày 13/02/2024 đến ngày 19/02/2024 với số tiền là 4.200.000 đồng mà ông M đưa ra là không có cơ sở. Do đó, thiệt hại được xem xét bồi thường cho ông M tương ứng với số tiền là 7.729.151 đồng và thiệt hại được xem xét bồi thường cho ông K tương ứng với số tiền là 1.307.456 đồng.

[6] Về mức bồi thường: Việc xác định mức bồi thường cần xem xét, đánh giá mức độ lỗi của hai bên trong việc để xảy ra sự việc xô xát, đánh nhau. Sự việc xảy ra xuất phát từ lỗi của cả hai bên, mặc dù hai bên có mối quan hệ họ hàng (ông M là chồng của bà L, bà L là cô của ông K nên ông K gọi ông M là dượng) nhưng chỉ vì mâu thuẫn, xích mích hết sức nhỏ nhặt trong đời sống xã hội mà ông M và ông K đã cự cãi rồi xô xát, đánh nhau gây ra thương tích cho cả hai bên, làm ảnh hưởng đến trật tự trị an tại địa phương và làm sứt mẻ mối quan hệ họ hàng. Tại phiên tòa sơ thẩm, ông M và ông K cũng đều thừa nhận có lỗi trong việc để xảy ra sự việc. Vì vậy, Hội đồng xét xử xác định mức độ lỗi của ông M và ông K trong vụ việc này là ngang nhau, mỗi bên là 50%. Khoản 4 Điều 585 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định “Khi bên bị thiệt hại có lỗi trong việc gây thiệt hại thì không được bồi thường phần thiệt hại do lỗi của mình gây ra”, căn cứ vào mức độ lỗi thì ông K phải bồi thường cho ông M 50% thiệt hại tương ứng với số tiền là 7.729.151 đồng x 50% = 3.864.576 đồng và ông M phải bồi thường cho ông K 50% thiệt hại tương ứng với số tiền là 1.307.456 đồng x 50% = 653.728 đồng.

[7] Từ những phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử quyết định chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông M, buộc ông K phải có nghĩa vụ bồi thường cho ông M số tiền là 3.864.576 đồng và chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của ông K, buộc ông M phải có nghĩa vụ bồi thường cho ông K số tiền là 653.728 đồng.

[8] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Kế Sách tại phiên tòa sơ thẩm là có căn cứ, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[9] Về án phí sơ thẩm: Ông M và ông K mỗi người phải chịu án phí sơ thẩm với số tiền là 300.000 đồng theo quy định tại Điều 147 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015, điểm đ khoản 1 Điều 12, Điều 15, điểm b khoản 1, khoản 3 Điều 24, khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 6 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 2 Điều 92, Điều 147, Điều 227, Điều 228, khoản 2 Điều 244, Điều 266, Điều 271, khoản 1 Điều 273, điểm a khoản 2 Điều 482 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ vào các Điều 357, 468, 584, 585, 586, 590 Bộ luật Dân sự năm 2015; các Điều 2, 3, 7 Nghị quyết số 02/2022/NQ-HĐTP ngày 06/9/2022 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Dân sự về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng; điểm đ khoản 1 Điều 12, Điều 15, điểm b khoản 1, khoản 3 Điều 24, khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

T uyê n xử :

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông M về việc yêu cầu ông K bồi thường thiệt hại về sức khỏe.

Buộc ông K phải có nghĩa vụ bồi thường cho ông M số tiền là 3.864.576 đồng (Ba triệu tám trăm sáu mươi bốn nghìn năm trăm bảy mươi sáu đồng). Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của ông M đối với số tiền phải trả nêu trên cho đến khi thi hành xong, hàng tháng ông K còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 tương ứng với thời gian chưa thi hành án.

Phần quyết định này của Bản án được thi hành ngay mặc dù có thể bị kháng cáo, kháng nghị.

2. Đình chỉ xét xử đối với một phần yêu cầu khởi kiện của ông M về việc yêu cầu ông K bồi thường tiền tổn thất tinh thần 04 tháng với số tiền là 7.200.000 đồng.

3. Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của ông K về việc yêu cầu ông M bồi thường thiệt hại về sức khỏe.

Buộc ông M phải có nghĩa vụ bồi thường cho ông K số tiền là 653.728 đồng (Sáu trăm năm mươi ba nghìn bảy trăm hai mươi tám đồng). Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của ông K đối với số tiền phải trả nêu trên cho đến khi thi hành xong, hàng tháng ông M còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 tương ứng với thời gian chưa thi hành án.

Phần quyết định này của Bản án được thi hành ngay mặc dù có thể bị kháng cáo, kháng nghị.

4. Về án phí sơ thẩm: Ông M phải chịu án phí sơ thẩm với số tiền là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng). Ông K phải chịu án phí sơ thẩm với số tiền là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng).

5. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử lại vụ án theo trình tự phúc thẩm.

6. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

56
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp yêu cầu bồi thường thiệt hại sức khỏe số 163/2024/DS-ST

Số hiệu:163/2024/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kế Sách - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 06/08/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;