Bản án về tranh chấp xin ly hôn số 178/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GÒ CÔNG ĐÔNG, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 178/2022/HNGĐ-ST NGÀY 12/05/2022 VỀ TRANH CHẤP XIN LY HÔN

Trong ngày 12 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Gò Công Đ, tỉnh Tiền Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 125/2021/TLST-HNGĐ ngày tháng 02 năm 2021 về việc tranh chấp “Xin ly hôn”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 72/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 11 tháng 4 năm 2022 giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Anh Phạm Quốc K, sinh năm 1991.(có mặt) Địa chỉ: Ấp 1, xã GT, huyện Gò Công Đ, Tiền Giang.

* Bị đơn: Chị Mai Diễm K2, sinh năm 1989.(có mặt) Địa chỉ: Ấp 1, xã GT, huyện Gò Công Đ, Tiền Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện, bản tự khai đề ngày 17/3/2021, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn Phạm Quốc K trình bày:

Anh và chị K2 kết hôn và sống chung từ tháng 01 năm 2018, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã GT, huyện Gò Công Đ. Vợ chồng sống hạnh phúc đến năm 2019 thì xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân là do hai vợ chồng không hợp nhau, chị K2 hỗn hào với ba mẹ anh, thường xuyên cãi vả nhau, bất đồng quan điểm sống dẫn đến mâu thuẫn nghiêm trọng, sống ly thân từ tháng 4 năm 2019 cho đến nay. Vợ chồng không có hàn gắn trao đổi tình cảm, hiện tại không còn sống chung, không còn liên lạc với nhau. Nay không còn tình cảm với chị K2 nên anh yêu cầu ly hôn với chị K2.

- Về con chung: Có 01 con chung tên Phạm Quốc GH, sinh ngày 02/11/2019; Sau khi ly hôn, anh K yêu cầu chị K2 nuôi con, anh không cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: 01 chiếc xe hiệu Future FY biển số 63-B6.51331 do mẹ anh đứng tên là bà Bùi Thị Huệ, sinh năm 1960, hiện đang ở cùng địa chỉ với anh, tài sản do mẹ mua, anh chỉ mượn để chạy chứ mẹ anh không cho anh, biển số 63-B7.51331 không phải biển số 63-B6.51331, anh không đồng ý chia chiếc xe do xe là của mẹ anh đúng tên. Còn về máy bơm nước anh đồng ý chia 1/2 giá trị tài sản, anh xin giữ máy bơm giao ½ giá trị cho chị K2. Còn đối với sổ tiết kiệm thì anh không có sổ tiết kiệm nào ở Ngân hàng, còn nếu Tòa án xác minh có sổ tiết kiệm thì anh đồng ý chia ½ giá trị tài sản trong sổ tiết kiệm.

* Bị đơn chị Mai Diễm K2 trình bày:

Thống nhất về quá trình hôn nhân, còn nguyên nhân mâu thuẫn do mẹ chồng lấy trộm vàng, thường hay la mắng, xúc phạm danh dự phẩm chất của chị K2, đuổi hai vợ chồng ra khỏi nhà do mẫu thuẫn với mẹ chồng nhiều lần, anh K đánh chị K2 02 lần khi chị K2 mang thai. Khi chị K2 mang thai 02 tháng tuổi thì chị K2 bị mẹ chồng đuổi về nhà mẹ ruột, anh K không qua chăm sóc cho 02 mẹ con chị, đến khi con chị là bé GH được 08 tháng tuổi thì anh K mới qua chăm sóc mẹ con chị, đến tháng 3/2021 chị mới ly thân anh K. Nay chị vẫn còn thương chồng thương con nên chị không đồng ý ly hôn với anh K.

- Về con chung: Có 01 con chung tên Phạm Quốc GH, sinh ngày 02/11/2019. Nếu Tòa án chấp nhận cho ly hôn với anh K, chị K2 yêu cầu được nuôi con, không yêu cầu anh K cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Có 01 chiếc xe hiệu Future FY biển số 63-B6.51331, giá 33.000.000 đồng, một sổ tiết kiệm đang gửi Ngân hàng TMCP đầu tư và phát triển Việt Nam-chi nhánh Gò Công Đ (không biết số tiền bao nhiêu), một máy bơm nước để tưới cỏ trị giá 1.950.000 đồng. Sau khi ly hôn, chị yêu cầu chia ½ giá trị tài sản gồm: 01 chiếc xe hiệu Future FY biển số 63-B6.51331, giá 33.000.000 đồng, một sổ tiết kiệm đang gửi Ngân hàng TMCP đầu tư và phát triển Việt Nam-chi nhánh Gò Công Đ (không biết số tiền bao nhiêu), một máy bơm nước để tưới cỏ trị giá 1.950.000 đồng.

- Về nợ chung: Không có, không có không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên hòa giải ngày 04/11/2021, chị K2 và anh K tự nguyện rút lại toàn bộ yêu cầu chia tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Gò Công Đ, tỉnh Tiền Giang tham gia phiên tòa:

- Về tố tụng: trong quá trình từ khi thụ lý vụ án cho đến khi xét xử, Thẩm phán đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về thẩm quyền, xác định tư cách tham gia tố tụng của đương sự, xác minh thu thập chứng cứ, thụ lý vụ án và tuân thủ đúng thời hạn chuẩn bị xét xử được quy định tại các Điều 26 đến Điều 40; Điều 68; Điều 93 đến Điều 97; Điều 203 Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đã tuân thủ theo đúng quy định pháp luật tố tụng dân sự về phiên tòa sơ thẩm, thành phần Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng thực hiện theo đúng quy định tại các điều 70, 71, 72 và 234 Bộ luật tố tụng dân sự và không có kiến nghị gì.

- Về nội dung: đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các Điều 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình 2014, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Phạm Quốc K, cho anh Phạm Quốc K được ly hôn với chị Mai Diễm K2, giao con chung tên Phạm Quốc GH cho chị K2 nuôi dưỡng, anh K không phải cấp dưỡng do chị K2 không yêu cầu; tài sản chung và nợ chung: không xem xét giải quyết; anh K phải nộp án phí theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ hôn nhân: Anh Phạm Quốc K và chị Mai Diễm K2 kết hôn và có đăng ký kết hôn vào năm 2018 tại Ủy ban nhân dân xã GT theo giấy chứng nhận kết hôn số 56/2018 ngày 28/9/2014, nên đây là hôn nhân hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, anh Phạm Quốc K giữ nguyên yêu cầu xin ly hôn với chị K2 và anh cho rằng trong quá trình chung sống, hai vợ chồng không hợp nhau, chị K2 hỗn hào với ba mẹ anh, thường xuyên cãi vả nhau, bất đồng quan điểm sống dẫn đến mâu thuẫn nghiêm trọng, sống ly thân từ tháng 4 năm 2019 cho đến nay .

[3] Chị Mai Diễm K2 cho rằng nguyên nhân mâu thuẫn là do mẹ chồng lấy trộm vàng, thường hay la mắng, xúc phạm danh dự phẩm chất của chị K2, đuổi hai vợ chồng ra khỏi nhà do mâu thuẫn với mẹ chồng nhiều lần, anh K đánh chị K2 02 lần khi chị K2 mang thai. Khi chị K2 mang thai 02 tháng tuổi thì chị K2 bị mẹ chồng đuổi về nhà mẹ ruột, anh K không qua chăm sóc cho 02 mẹ con chị, đến khi con chị là bé GH được 08 tháng tuổi thì anh K mới qua chăm sóc mẹ con chị, đến tháng 3/2021 chị mới ly thân anh K. Nay chị vẫn còn thương chồng thương con nên chị không đồng ý ly hôn với anh K.

[4] Xét, anh Phạm Quốc K kiên quyết ly hôn, không muốn sống chung với chị K2; mâu thuẫn vợ chồng giữa anh K và chị K2 trầm trọng, không thể hàn gắn; vợ chồng không còn sự yêu thương, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau theo quy định tại Điều 19 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, nên anh Phạm Quốc K yêu cầu được ly hôn với chị Mai K2 Diễm là hoàn toàn phù hợp với Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình 2014.

[5] Về con chung: Anh K và chị K2 trình bày thống nhất có 01 con chung tên Phạm Quốc GH, sinh ngày 02/11/2019, hiện đang sống chung với chị K2. Tại phiên tòa chị Mai Diễm K2 yêu cầu được nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu anh Phạm Quốc K cấp dưỡng nuôi con. Anh Phạm Quốc K đồng ý giao con chung cho chị Mai Diễm K2 nuôi dưỡng, anh không cấp dưỡng nuôi con;

[6] Xét, tính đến thời điểm xét xử sơ thẩm, cháu Phạm Quốc GH, sinh ngày 02/11/2019 chưa đủ 03 tuổi, ngoài ra chị K2 cho rằng từ khi sinh con anh K không có qua nhà chị K2 chăm sóc, nuỗi dưỡng cho bé GH. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định giao con chung cho chị Mai Diễm K2 tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[7] Về cấp dưỡng: Chị Mai Diễm K2 không yêu cầu anh Phạm Quốc K cấp dưỡng nuôi con, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[8] Về tài sản chung, nợ chung: Anh Phạm Quốc K và chị Mai Diễm K2 thống nhất tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[9] Xét, đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Gò Công Đ, là có căn cứ nên chấp nhận.

[9] Về án phí: Nguyên đơn anh Phạm Quốc K phải nộp 300.000 đồng án phí hôn nhân sơ thẩm theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 2 điều 244 Bộ luật tố tụng dân sự; các điều 51, 53, 56, 81, 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Xử:

- Về quan hệ hôn nhân: Cho anh Phạm Quốc K được ly hôn với chị Mai Diễm K2.

- Về con chung: Giao con chung tên Phạm Quốc GH, sinh ngày 02/11/2019 cho chị Mai Diễm K2 nuôi dưỡng.

Anh Phạm Quốc K không phải cấp dưỡng nuôi con và có quyền thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con chung, không ai được ngăn cản.

- Về tài sản chung: tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về án phí: Anh Phạm Quốc K phải nộp 300.000 đồng án phí hôn nhân sơ thẩm. Anh đã nộp 300.000 đồng tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0018567 ngày 23/3/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Gò Công Đ, tỉnh Tiền Giang, nên xem như đã nộp xong án phí.

Các đương sự có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

156
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp xin ly hôn số 178/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:178/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gò Công Đông - Tiền Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 12/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;