TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LỤC NGẠN, TỈNH BẮC GIANG
BẢN ÁN 136/2024/HNGĐ-ST NGÀY 30/09/2024 VỀ TRANH CHẤP VỀ XÁC ĐỊNH CHA CHO CON
Ngày 30 tháng 9 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 316/2024/TLST-HNGĐ ngày 23 tháng 7 năm 2024 về việc “Tranh chấp về xác định cha cho con”.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 131/2024/QĐXXST-HNGĐ ngày 17 tháng 9 năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Y, sinh năm 1993 (vắng mặt, có đơn xin vắng mặt). Nơi cư trú: Thôn H, xã P, huyện L, tỉnh Bắc Giang.
- Bị đơn: Anh Tống Văn H, sinh năm 1984 (vắng mặt, có đơn xin vắng mặt). Nơi công tác: Phòng Tham mưu, Lữ đoàn 575, Quân khu A (địa chỉ: thôn H, xã P, huyện L, tỉnh Bắc Giang).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Hoàng Văn T, sinh năm 1985 (vắng mặt). Nơi cư trú: Thôn H, xã A, huyện S, tỉnh Bắc Giang.
NỘI DUNG VỤ ÁN
*Tại đơn khởi kiện để ngày 18/7/2024 và quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án, nguyên đơn là chị Nguyễn Thị Y trình bày:
Chị kết hôn với anh Hoàng Văn T vào năm 2011. Quá trình chung sống chị và anh T nảy sinh mâu thuẫn, đã ly thân từ năm 2014 và đã giải quyết ly hôn tại Tòa án nhân dân huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang tại Quyết định số 244/2020/QĐST-HNGĐ ngày 03 tháng 9 năm 2020. Trong thời gian ly thân với anh T, chị đã nảy sinh tình cảm với anh Tống Văn H. Ngày 20/9/2019, chị sinh cháu Hoàng Phương C, đã đăng ký khai sinh cho cháu theo Giấy khai sinh số 286/2019 do UBND xã P, huyện L, tỉnh Bắc Giang cấp ngày 15/10/2019. Trong giấy khai sinh thể hiện cháu Hoàng Phương C có cha đề là anh Hoàng Văn T. Ngày 24/8/2022, chị đăng ký kết hôn với anh Tống Văn H. Sau đó anh H nghi ngờ cháu C là con chung của anh H và chị nên đã đi làm thủ tục giám định ADN. Kết quả giám định xác định anh H và cháu C có quan hệ huyết thống cha-con. Do vậy, chị làm đơn khởi kiện, đề nghị Tòa án xác định anh Tống Văn H là cha đề của cháu Hoàng Phương C.
* Tại Bản tự khai, bị đơn là anh Tống Văn H trình bày:
Năm 2018, anh quen biết và có quan hệ tình cảm với chị Nguyễn Thị Y. Anh được biết chị Y đã đăng ký kết hôn với anh Hoàng Văn T nhưng đã ly thân từ năm 2015. Đến ngày 03/9/2020, Tòa án nhân dân huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang đã giải quyết cho chị Y và anh Hoàng Văn T ly hôn. Đến ngày 24/8/2022, anh và chị Y đã đăng ký kết hôn tại UBND xã P, huyện L, tỉnh Bắc Giang. Trong thời gian quan biết với chị Y thì đến ngày 20/9/2019, chị Y đã sinh cháu Hoàng Phương C. Do cháu C được sinh ra trong thời kỳ hôn nhân giữa chị và anh T nên khi trong giấy khai sinh đã thể hiện cháu C có cha đề là anh Hoàng Văn T. Anh cùng cháu C đã làm thủ tục xét nghiệm ADN, kết quả xét nghiệm xác định anh và cháu C có mối quan hệ cha - con gái. Nay chị Y đề nghị Tòa án xác định anh là cha đề của cháu bé dự định đặt tên là Hoàng Phương C, sinh ngày 20/9/2019 thì anh đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định pháp luật.
* Tại Biên bản lấy lời khai ngày 21/8/2024, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Hoàng Văn T trình bày:
Anh và chị Y kết hôn năm 2012, đăng ký kết hôn tại UBND xã P, huyện L, tỉnh Bắc Giang. Trong thời kỳ hôn nhân phát sinh mâu thuẫn nên đã đề nghị Tòa án nhân dân huyện Lục Ngạn giải quyết cho anh được ly hôn với chị Y. Tại Quyết định số 244/2020/QĐST-HNGĐ ngày 03/9/2020 đã công nhận cho anh và chị Y được ly hôn. Về con chung: giao chị Y nuôi dưỡng con chung là Hoàng Nguyên V và Hoàng Phương C, sinh ngày 20/9/2020. Đối với yêu cầu khởi kiện của chị Y, quan điểm của anh là anh xác định cháu Hoàng Phương C, sinh ngày 20/9/2019 là con chung của anh và chị Y trong thời kỳ hôn nhân, đề nghị Tòa án căn cứ vào hồ sơ vụ án giải quyết theo quy định pháp luật. Vì lý do ở xa, công việc bận, anh xin vắng mặt tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp công khai chứng cứ, phiên hòa giải và phiên tòa xét xử.
* Tại Văn bản số 20092024/2024/CV-GL ngày 20 tháng 9 năm 2024 của Viện Công nghệ A1 và Phân tích Di truyền xác định:
Viện Công nghệ A1 và Phân tích Di truyền thực hiện việc xét nghiệm ADN cho ông Tống Văn H và người có tên dự định thay đổi Tống Phương C1 (tên trên giấy khai sinh Hoàng Phương C). Quy trình thu mẫu xét nghiệm và phân tích tại kết quả xét nghiệm ADN số 241523GL/ADN ngày 09/7/2024 được thực hiện theo đúng quy trình, tuân thủ theo đúng trình tự và thủ tục pháp lý, đảm bảo kết quả xét nghiệm hoàn toàn khách quan và chính xác.
* Tại phiên tòa, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Y, bị đơn anh Tống Văn H, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Hoàng Văn T vắng mặt. Hội đồng xét xử đã tóm tắt nội dung vụ án, công bố các tài liệu trong hồ sơ vụ án.
Đại diện Viện kiểm sát phát biểu việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của các đương sự. Thẩm phán đã thực hiện đúng trình tự thủ tục tố tụng, xác định đúng thẩm quyền, quan hệ pháp luật, thu thập chứng cứ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa thực hiện đúng nguyên tắc, trình tự tố tụng dân sự. Nguyên đơn, bị đơn đã chấp hành đúng các quy định về quyền nghĩa vụ của mình quy định tại Điều 70, Điều 71, Điều 72- Bộ luật Tố tụng dân sự. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chưa chấp hành đúng các quy định về quyền nghĩa vụ của mình quy định tại Điều 70, Điều 73- Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về đường lối giải quyết vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 4 Điều 28; điểm a, khoản 1, Điều 35; Điều 39; Điều 227; Điều 228; Điều 238; Điều 271; Điều 273; Điều 280- Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 101; khoản 2, Điều 102- Luật Hôn nhân và gia đình; điểm b, khoản 1, Điều 12- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, tuyên xứ: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Y: Xác định anh Tống Văn H, sinh năm 1984; nơi công tác: Phòng Tham mưu, Lữ đoàn E, Quân khu A (địa chỉ: thôn H, xã P, huyện L, tỉnh Bắc Giang) là cha đẻ của cháu Hoàng Phương C, sinh ngày 20/9/2019. Ngoài ra còn đề nghị về án phí.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Chị Nguyễn Thị Y yêu cầu Tòa án xác định anh Tống Văn H là cha đẻ của cháu Hoàng Phương C, sinh ngày 20/9/2019; anh Tống Văn H có nơi công tác: Phòng Tham mưu, Lữ đoàn 575, Quân khu A (địa chỉ: thôn H, xã P, huyện L, tỉnh Bắc Giang). Căn cứ quy định tại khoản 4, Điều 28; Điều 35; Điều 39- Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 2, Điều 101, Điều 102- Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 xác định đây là quan hệ tranh chấp là “Tranh chấp về xác định cha cho con” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang.
[2] Về việc vắng mặt của những người tham gia tố tụng: Tại phiên tòa, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Y, bị đơn anh Tống Văn H và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Hoàng Văn T vắng mặt nhưng đã có đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ quy định tại Điều 227; khoản 1, Điều 228; Điều 238- Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án vắng mặt chị Nguyễn Thị Y, anh Tống Văn H, anh Hoàng Văn T.
[3] Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thì thấy:
[3.1] Căn cứ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ, lời khai của các đương sự, Hội đồng xét xử thấy: Chị Nguyễn Thị Y và anh Hoàng Văn T kết hôn vào năm 2012. Quá trình chung sống, chị Nguyễn Thị Y và anh Hoàng Văn T nảy sinh mâu thuẫn, sống ly thân từ năm 2014 đến ngày 03/9/2020 thì ly hôn. Trong thời gian ly thân và chưa làm thủ tục ly hôn với anh Hoàng Văn T, chị Nguyễn Thị Y đã chung sống như vợ chồng với anh Tống Văn H. 20/9/2019, chị sinh cháu Hoàng Phương C, đã đăng ký khai sinh cho cháu theo Giấy khai sinh số 286/2019 do UBND xã P, huyện L, tỉnh Bắc Giang cấp ngày 15/10/2019. Trong giấy khai sinh thể hiện cháu Hoàng Phương C có cha đẻ là anh Hoàng Văn T. Tại khoản 1, Điều 88- Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân là con chung của vợ chồng”. Như vậy, thời điểm cháu bé dự định đặt tên là Hoàng Phương C là trong thời kỳ hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị Y và anh Hoàng Văn T.
[3.2] Quá trình giải quyết vụ án, chị Nguyễn Thị Y xác định mặc dù cháu Hoàng Phương C được sinh ra trong thời kỳ hôn nhân giữa chị và anh Hoàng Văn T nhưng thực tế thì chị Y đã ly thân anh T từ năm 2014. Chị Y và anh T không có quan hệ tình cảm gì, không có việc quan hệ vợ chồng, không liên lạc hỏi thăm gì nhau. Anh Tống Văn H xác định anh có quan hệ tình cảm với chị Y từ năm 2018. Theo kết quả ADN số 241523GL/ADN ngày 09/7/2024 của Viện Công nghệ A1 và Phân tích Di truyền đã xác định anh Tống Văn H và cháu Hoàng Phương C có quan hệ huyết thống cha-con. Anh Hoàng Văn T xác định cháu Hoàng Phương C là con chung trong thời kỳ hôn nhân của anh và chị Y. Tòa án đã thông báo để anh T là thủ tục giám định để làm căn cứ giải quyết vụ án nhưng anh T không đến Tòa án tiến hành giám định mà đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định.
[3.3] Từ những đánh giá trên, căn cứ vào Kết quả xét nghiệm, Hội đồng xét xử xét thấy đủ cơ sở chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Y, cần xác định anh Tống Văn H là cha đẻ của cháu Hoàng Phương C, sinh ngày 20/9/2019 là phù hợp quy định tại khoản 2, Điều 102- Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
[4] Về án phí: Căn cứ theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 12- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án; khoản 1 Điều 11- Nghị quyết số 01/2024/NQ-HĐTP ngày 16/5/2024 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật trong giải quyết vụ việc về hôn nhân và gia đình thì các đương sự trong vụ án không phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm.
[5] Xét ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tại phiên tòa về việc đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử, nên cần chấp nhận.
[6] Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 271, Điều 273- Bộ luật Tố tụng dân sự.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 4, Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 39, Điều 227, Điều 228, Điều 238, Điều 271, Điều 273, Điều 280- Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 88, Điều 101, khoản 2, Điều 102- Luật Hôn nhân và gia đình; điểm b, khoản 1, Điều 12- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án; khoản 1 Điều 11- Nghị quyết số 01/2024/NQ-HĐTP ngày 16/5/2024 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật trong giải quyết vụ việc về hôn nhân và gia đình.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Y:
Xác định anh Tống Văn H, sinh năm 1984; nơi công tác: Phòng Tham mưu, Lữ đoàn E, Quân khu A, địa chỉ: thôn H, xã P, huyện L, tỉnh Bắc Giang (căn cước công dân số 024084017738 cấp ngày 27/12/2021 tại Cục Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội) là cha đẻ của cháu Hoàng Phương C, sinh ngày 20/9/2019 (theo Giấy khai sinh số 286/2019 do UBND xã P, huyện L, tỉnh Bắc Giang cấp ngày 15/10/2019).
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, chị Nguyễn Thị Y được quyền liên hệ với cơ quan tư pháp có thẩm quyền để làm thủ tục cải chính hộ tịch vào giấy khai sinh của cháu Hoàng Phương C theo quy định của pháp luật.
2. Về án phí: Các đương sự không phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm.
3. Về quyền kháng cáo: Đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết công khai.
Bản án về tranh chấp xác định cha cho con số 136/2024/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 136/2024/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Lục Ngạn - Bắc Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 30/09/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về