Bản án về tranh chấp về hợp đồng dân sự vay tài sản số 91/2020/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG

BN ÁN 91/2020/DS-ST NGÀY 28/07/2020 VỀ TRANH CHẤP VỀ HỢP ĐỒNG DÂN SỰ VAY TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 7 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 137/2020/TLST-DS ngày 27 tháng 02 năm 2020 về việc “tranh chấp hợp đồng dân sự vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 241/2020/QĐXXST-DS ngày 15 tháng 6 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 245/2020/QĐST-DS ngày 08 tháng 7 năm 2020, giữa các đương sự:

Ngun đơn: Bà Nguyễn Thị C, sinh năm 1963; địa chỉ: ấp P, xã K, huyện C, tỉnh An Giang; có mặt.

Ngưi đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Hà Thanh H, sinh năm 1961; địa chỉ: ấp P, xã K, huyện C, tỉnh An Giang; là người đại diện theo ủy quyền (theo giấy ủy quyền được Văn phòng công chứng L chứng nhận ngày 15/5/2020); có mặt đơn: Bà Trương Thị Q (H), sinh năm 1961; địa chỉ: ấp P, xã K, huyện C, tỉnh An Giang; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện ngày 27/02/2020 và lời khai cung cấp trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày, vào năm 2012, bà Nguyễn Thị C có cho bà Trương Thị Q vay số tiền 40.000.000 đồng, lãi suất 2,5%/tháng, không thỏa thuận thời hạn trả, không lập biên nhận. Sau khi vay, bà Q trả lãi được 04 tháng với tổng số tiền lãi 4.000.000 đồng rồi ngưng trả lãi và vốn. Khi đó, bà Q có thỏa thuận với bà C nhập tiền lãi hàng tháng vào số tiền vốn. Tuy nhiên, đến năm 2014, bà Q xin bà C phần tiền lãi, chỉ trả số tiền vốn và được bà C đồng ý. Nhưng sau đó, bà Q chỉ trả dần được tổng số tiền 9.500.000 đồng, còn nợ lại 30.500.000 đồ ng và ngưng trả tiếp.

Vào ngày 20/6/2019, bà C, ông Lê Khắc B (cháu của bà C), bà Trần Thị Kim S (con dâu của bà C) đến nhà của bà Q. Khi đó, bà C có nhờ ông B viết tờ cam kết với nội dung bà Q có nợ bà C số tiền 30.500.000 đồng. Bà Q có ký tên vào tờ cam kết và hứa định kỳ 03 tháng trả 3.000.000 đồng. Sau đó, bà Q trả được 3.000.000 đồng rồi ngưng trả tiếp mặc dù bà C đã nhiều lần yêu cầu trả nợ.

Vì vậy, bà C yêu cầu bà Q trả số tiền vay còn nợ 27.500.000 đồng, không yêu cầu tính lãi.

Tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn cung cấp chứng minh cho ý kiến, yêu cầu khởi kiện gồm: Tờ cam kết ngày 20/6/2019 có chữ ký, chữ viết đề họ và tên Trương Thị Q (bản photo); giấy ghi số nợ với nội dung dòng đầu 40 triệu đồng (bản photo).

- Theo lời khai trong quá trình giải quyết vụ án b đơn bà Trương Th Q trình bày, vào năm 2008, do cần vốn làm ăn nên bà Q có vay của bà C số tiền 42.000.000 đồng, lãi suất 6%/tháng, không thỏa thuận thời hạn trả nợ, không lập biên nhận. Sau khi vay, bà Q trả tiền lãi và tiền vốn cho bà C gần hết, chỉ còn nợ lại 3.000.000 đồng. Do thời gian vay đã lâu và không lập sổ theo dõi nên bà Q không nhớ số tiền đã trả.

Vào ngày 20/6/2019, bà C cùng ông Lê Khắc B, con dâu của bà C đến nhà tìm bà Q và yêu cầu bà Q ký tên vào tờ giấy có viết sẵn nội dung nhưng bà Q không đồng ý. Ông B nói đó là giấy xóa nợ giữa bà Q với bà C nên bà Q chấp nhận việc ông B cầm tay hướng dẫn bà Q ký tên vào tờ cam kết. Sau đó 02 ngày, khi bà C và ông B đến gặp bà Q thì bà Q đã trả hết số tiền còn nợ 3.000.000 đồng.

Do không còn nợ bà C nên bà Q không chấp nhận trả nợ theo yêu cầu kiện của bà C.

Tài liệu, chứng cứ do bị đơn cung cấp: không có.

Tại phiên tòa, - Nguyên đơn, người đại diện hợp pháp của nguyên đơn trình bày ý kiến, yêu cầu như đã cung cấp trong giai đoạn chuẩn bị xét xử. Ngoài các tài liệu, chứng cứ đã cung cấp cho Tòa án, nguyên đơn, người đại diện hợp pháp của nguyên đơn xác định không còn tài liệu, chứng cứ nào khác để cung cấp thêm.

- Ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa:

Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Nguyên đơn, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn đã thực hiện đúng quy định tại các Điều 70, 71 và 234 Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không lý do nên Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt là phù hợp với Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về việc giải quyết vụ án: Căn cứ mà bà C khởi kiện là tờ cam kết ngày 20/6/2019 với tổng số nợ 30.500.000 đồng. Bà Q có ký tên vào tờ cam kết. Sau đó, bà Q có trả cho bà C 3.000.000 đồng, còn nợ 27.500.000 đồng. Tuy nhiên, bà Q không thừa nhận việc còn nợ và không đồng ý trả nợ nhưng không có chứng cứ chứng minh nên không có cơ sở xem xét. Do bà Q vi phạm nghĩa vụ trả nợ nên bà C khởi kiện là có căn cứ và phù hợp với các Điều 463, 466 Bộ luật Dân sự. Do bà C không yêu cầu tính lãi suất nên không đề cập đến.

Đề ghị Hội đồng xét xử áp dụng các Điều 463, 466 Bộ luật Dân sự năm 2015, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà C; buộc bà Q trả cho bà C số tiền 27.500.000 đồng.

* Về tố tụng:

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Bà Nguyễn Thị C khởi kiện yêu cầu bà Trương Thị Q trả nợ vay. Bà Q đang cư trú trên địa bàn huyện C nên yêu cầu kiện của bà C thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới theo quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về sự vắng mặt của đương sự: Trước khi phiên tòa được mở, bà Trương Thị Q đã được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa lần thứ 2 nhưng vẫn vắng mặt. Cho nên, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bà Q theo quy định tại khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

* Về nội dung:

[3] Về việc giao kết, thực hiện hợp đồng vay tài sản:

Nguyên đơn, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn cho rằng, vào năm 2012, bà C có cho bà Q vay số tiền 40.000.000 đồng, lãi suất 2,5%/tháng, không thỏa thuận thời hạn trả, không lập biên nhận. Sau khi vay, bà Q trả lãi được 04 tháng với số tiền 4.000.000 đồng; trả tiền vốn nhiều lần với số tiền 9.500.000 đồng và tính đến trước ngày 20/6/2019, còn nợ lại nợ vốn 30.500.000 đồng. Vào ngày 20/6/2019, bà C có nhờ ông Lê Khắc B viết tờ cam kết thể hiện bà Q có nợ bà C số tiền 30.500.000 đồng và bà Q cam kết định kỳ 03 tháng trả 3.000.000 đồng. Sau đó, bà Q trả được 3.000.000 đồng rồi ngưng. Cho nên, bà Q còn nợ bà C số tiền vay 27.500.000 đồng.

Bà Q khai, vào năm 2008, bà Q có vay của bà C số tiền 42.000.000 đồng, lãi suất 6%/tháng, không thỏa thuận thời hạn trả nợ, không lập biên nhận. Sau khi vay, bà Q trả tiền lãi và tiền vốn cho bà C gần hết; đến trước ngày 20/6/2019, chỉ còn nợ lại 3.000.000 đồng. Vào ngày 20/6/2019, bà C cùng ông B lập tờ cam kết đề ngày 10/6/2019 và nói là giấy xóa nợ, cầm tay hướng dẫn bà Q ký tên. Sau đó 02 ngày, bà Q trả cho bà C số tiền 3.000.000 đồng. Cho nên, bà Q không còn nợ bà C.

Như vậy, lời khai của bà C, bà Q mâu thuẫn nhau về thời điểm vay, số tiền vay, lãi suất, số tiền đã trả. Đồng thời, bà C, bà Q xác định hợp đồng chỉ lập bằng lời nói và các bên không cung cấp được tài liệu, chứng cứ thể hiện việc xác lập hợp đồng như mỗi người khai.

Tuy nhiên, bà C, bà Q thống nhất, vào ngày 20/6/2019, bà C có cùng ông B, bà Trần Thị Kim S (con dâu của bà C) có đến nhà của bà Q và bà Q có ký tên vào tờ cam kết đề ngày 20/6/2019.

Trong khi đó, tờ cam kết đề ngày 20/6/2019 thể hiện, bà Q có nợ bà C 30.500.000 đồng; hứa 03 tháng trả 3.000.000 đồng kể từ ngày 20/6/2019. Sau đó, bà Q có trả cho bà C 3.000.000 đồng.

Bà Q cho rằng, ông B cầm tay bà Q ký tên và nói nội dung tờ cam kết đề ngày 20/6/2019 là xóa nợ. Trong khi đó, bà C, ông B, bà S xác định, việc bà Q ký tên vào tờ cam kết đề ngày 20/6/2019 là tự nguyện. Hơn nữa, nếu nội dung tờ cam kết đề ngày 20/6/2019 là xóa nợ thì việc bà Q trả 3.000.000 đồng sau đó là có sự mâu thuẫn. Cho nên, không có cơ sở xác định việc bà Q ký tên vào tờ cam kết đề ngày 20/6/2019 là không tự nguyện.

Như vậy, có căn cứ xác định bà Q có vay tiền của bà C và nợ lại số tiền 30.500.000 đồng theo tờ cam kết đề ngày 20/6/2019. Sau đó, bà Q trả cho bà C 3.000.000 đồng nên còn nợ lại 27.500.000 đồng như trình bày của bà C. [4] Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:

Do bà Q vi phạm nghĩa vụ trả nợ nên bà C khởi kiện yêu cầu bà Q trả số nợ còn lại là phù hợp với quy định tại các Điều 466, 469 Bộ luật Dân sự năm 2015.

Về yêu cầu trả lãi do chậm thực hiện nghĩa vụ, bà C không yêu cầu bà Q trả lãi do chậm thực hiện nghĩa vụ trả nợ là có lợi cho bị đơn nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

Về số tiền lãi đã thanh toán, mặc dù số tiền lãi 4.000.000 đồng mà bà C đã nhận là cao hơn quy định pháp luật. Tuy nhiên, bà Q không trả lãi trong khoảng thời gian dài; số tiền lãi chưa trả cao hơn số tiền lãi chênh lệch mà C đã nhận. Cho nên, Hội đồng xét xử không khấu trừ tiền lãi đã nhận vượt quá quy định vào vốn.

Vì vậy, buộc bà Q trả cho bà C số nợ vay 27.500.000 đồng.

[5] Về án phí dân sự sơ thẩm, bà Q phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với số tiền phải thanh toán cho bà C là 1.375.000 đồng.

Bà C không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm; hoàn lại cho bà C số tiền tạm ứng án phí 687.500 đồng mà bà C đã nộp.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 463, 466, 468 và 469 ộ luật Dân sự năm 2015; các Điều 147, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 ; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án ;

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị C.

Buộc bà Trương Thị Q trả cho bà Nguyễn Thị C số nợ vay 27.500.000 (hai mươi bảy triệu, năm trăm nghìn) đồng.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm:

Bà Trương Thị Q phải chịu 1.375.000 (một triệu, ba trăm bảy mươi lăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Bà Nguyễn Thị C không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn trả cho bà Nguyễn Thị C số tiền tạm ứng án phí 687.500 (sáu trăm tám mươi bảy nghìn, năm trăm) đồng đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số TU/2017/0008129 ngày 27/02/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện C.

3. Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bà Nguyễn Thị C có quyền kháng cáo để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh An Giang xét xử p húc thẩm.

Riêng thời hạn kháng cáo của bà Trương Thị Q được tính là 15 ngày kể từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yết.

Tng hợp bản án, quyết đ nh được thi hành theo quy đ nh tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, ng ười phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc b cưỡng chế thi hành án theo quy đ nh tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy đ nh tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

91
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp về hợp đồng dân sự vay tài sản số 91/2020/DS-ST

Số hiệu:91/2020/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 28/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;