TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 50/2024/LĐ-ST NGÀY 20/09/2024 VỀ TRANH CHẤP TIỀN LƯƠNG VÀ BẢO HIỂM XÃ HỘI
Vào ngày 20 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án Lao động thụ lý số 209/2024/TLST-LĐ ngày 14 tháng 8 năm 2024 về việc “Tranh chấp về tiền lương và bảo hiểm xã hội” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 475/2024/QĐXXST-LĐ ngày 29 tháng 8 năm 2024 và Quyết định hoãn phiên tòa số 42/2024/QĐST-LĐ ngày 13 tháng 9 năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: bà Hồ Niên L, sinh năm 1990; thường trú: thôn Đ, xã Đ, huyện D, tỉnh Lâm Đồng; địa chỉ liên hệ: số D đường A, phường L, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh, có yêu cầu giải quyết vắng mặt.
- Bị đơn: Công ty TNHH S; trụ sở: 1 V, khu phố B, phường L, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh; địa chỉ liên hệ: số D, đường Đ, khu phố Đ, phường T, thành phố D, tỉnh Bình Dương.
Người đại diện theo pháp luật: bà Ngô Thị Minh H, chức danh: Giám đốc.
Người đại diện theo ủy quyền: ông Nguyễn Thanh Đ, sinh năm 1970; địa chỉ: D O Â, phường T, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh (văn bản ủy quyền ngày 20/8/2024), có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bảo hiểm xã hội thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh; trụ sở: số D đường Đ, phường T, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện hợp pháp: ông Lê Bảo V, sinh năm 1973; địa chỉ: số D đường Đ, phường T, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh, là người đại diện theo ủy quyền (văn bản ủy quyền ngày 21/8/2024), có yêu cầu giải quyết vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
- Theo đơn khởi kiện, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn bà Hồ Niên L trình bày:
Bà Hồ Niên L vào làm việc tại Công ty TNHH S (gọi là công ty S) từ tháng 7/2020, thỏa thuận thời gian thử việc từ tháng 7/2020 đến tháng 12/2020. Đến tháng 01/2021 ký kết hợp đồng lao động nhưng công ty S không giao hợp đồng cho bà L;
công việc phải làm là nhân viên bán hàng với mức lương cơ bản 5.000.000 đồng/tháng;
ngoài ra còn khoản tiền phụ cấp chuyên cần, đi lại, tay nghề, tiền cơm; địa điểm làm việc tại: số D, đường Đ, khu phố Đ, phường T, thành phố D, tỉnh Bình Dương, một ngày làm 08 tiếng, một tháng làm 26 ngày, trả tiền lương vào ngày đầu tháng dương lịch.
Quá trình làm việc, công ty S thanh toán tiền lương đầy đủ, cho đến tháng 01/2024 còn nợ một phần tiền lương của tháng 01/2024 và từ tháng 3/2024 đến đầu tháng 7/2024 không trả tiền lương, tổng cộng tiền lương còn nợ là 37.000.000 đồng.
Và công ty S không đóng bảo hiểm xã hội cho bà L từ tháng 01/2021 đến tháng 06/2024.
Đầu tháng 7/2024, bà L xin nghỉ việc. Sau khi nghỉ việc bà L có yêu cầu công ty S phải thanh toán tiền lương còn nợ và đóng bảo hiểm xã hội cho bà đầy đủ theo quy định của pháp luật nhưng công ty S không có thiện chí.
Vì vậy, bà Hồ Niên L yêu cầu Toà án giải quyết buộc công ty S thanh toán tiền lương còn thiếu một phần của tháng 01/2024 và từ tháng 3/2024 đến đầu tháng 7/2024, tổng cộng là 37.000.000 đồng; có trách nhiệm đóng và xác nhận thời gian đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp từ tháng 01/2021 cho đến tháng 6/2024 cho bà Hồ Niên L.
- Tại văn bản ý kiến ngày 20/8/2024, văn bản trình bày ý kiến bổ sung và tại phiên tòa người đại diện theo ủy quyền của bị đơn là ông Nguyễn Thanh Đ trình bày:
Thống nhất bà Hồ Niên L có quan hệ lao động với công ty S và làm việc tại số D, đường Đ, khu phố Đ, phường T, thành phố D, tỉnh Bình Dương. Hiện bà L không còn làm việc tại công ty S. Công ty S xác nhận còn thiếu tiền lương một phần của tháng 01/2024 và từ tháng 3/2024 đến tháng 7/2024 chưa trả cho bà L với tổng số tiền 37.148.000 đồng. Thống nhất theo văn bản cung cấp thông tin bảo hiểm của cơ quan Bảo hiểm xã hội thành phố T cụ thể từ tháng 01/2021 đến tháng 6/2024 công ty S chưa đóng và chưa xác nhận quá trình đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp cho bà L theo quy định. Nay, bà L khởi kiện chỉ yêu cầu trả tiền lương còn nợ 37.000.000 đồng, đóng và xác nhận quá trình đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp từ tháng 01/2021 đến tháng 6/2024 thì công ty S đồng ý.
- Tại văn bản ngày 21/8/2024 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Bảo hiểm xã hội thành phố T trình bày:
Căn cứ vào dữ liệu của ngành Bảo hiểm xã hội, người lao động Hồ Niên L, sinh ngày 13/11/1990, mã số BHXH 79386666xx, số CCCD 06819000228xx, có quá trình tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp từ tháng 01/2021 đến tháng 6/2024 tại Công ty TNHH S. Tính đến tháng 7/2024, công ty S còn nợ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp số tiền 1.944.331.112 đồng, mới hoàn thành BHXH đến tháng 9/2020. Sổ bảo hiểm của bà L chưa được chốt do công ty S nợ quỹ từ tháng 10/2020.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa, Tòa án nhận định:
[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết: nguyên đơn khởi kiện tranh chấp tiền lương và bảo hiểm xã hội phát sinh từ quan hệ lao động với bị đơn. Nguyên đơn lựa chọn Tòa án nơi làm việc giải quyết tranh chấp, cụ thể nơi nguyên đơn làm việc tại số D, đường Đ, khu phố Đ, phường T, thành phố D, tỉnh Bình Dương. Vì vậy, đây là vụ án “Tranh chấp về tiền lương và bảo hiểm xã hội” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương được quy định tại khoản 1 Điều 32, điểm đ khoản 1 Điều 40 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về sự vắng mặt của đương sự: nguyên đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt. Do đó, căn cứ Điều 227 và Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt nguyên đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
[3] Quá trình tố tụng, nguyên đơn và bị đơn đều thống nhất hai bên có quan hệ lao động, số tiền lương còn nợ, chưa đóng và xác nhận thời gian đóng bảo hiểm xã hội cho nguyên đơn theo quy định. Đây là sự thừa nhận của các đương sự cho nên không cần phải chứng minh theo quy định tại Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
[4] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thấy rằng:
[4.1] Căn cứ vào sự thừa nhận của các đương sự có cơ sở xác định giữa nguyên đơn với bị đơn có quan hệ lao động với nhau. Quan hệ lao động giữa nguyên đơn và bị đơn trên tinh thần tự nguyện, không trái quy định của pháp luật nên có giá trị và hiệu lực thi hành. Đầu tháng 7/2024 nguyên đơn xin nghỉ việc. Sau khi nghỉ việc, bị đơn vẫn còn nợ tiền lương, cho nên nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn thanh toán tiền lương còn nợ một phần của tháng 01/2024 và từ tháng 03/2024 đến đầu tháng 7/2024 là 37.000.000 đồng. Quá trình tố tụng và tại phiên tòa, bị đơn đồng ý thanh toán tiền lương còn thiếu trên cho nguyên đơn. Như vậy, số tiền lương bị đơn còn thiếu thì bị đơn phải có trách nhiệm trả nguyên đơn theo quy định Điều 95 Bộ luật Lao động “1. Người sử dụng lao động trả lương cho người lao động căn cứ vào tiền lương đã thỏa thuận, năng suất lao động và chất lượng thực hiện công việc”.
[4.2] Đối với yêu cầu về BHXH: việc đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc là trách nhiệm của người sử dụng lao động và người lao động theo quy định tại khoản 1 Điều 19 “Trách nhiệm của người lao động 1. Đóng bảo hiểm xã hội theo quy định của Luật này…” và khoản 2 Điều 21 “Trách nhiệm của người sử dụng lao động 2. Đóng bảo hiểm xã hội theo quy định tại Điều 86 và hằng tháng trích từ tiền lương của người lao động theo quy định tại khoản 1 Điều 85 của Luật này để đóng cùng một lúc vào quỹ bảo hiểm xã hội…” Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014. Theo lời trình bày của người đại diện hợp pháp của Bảo hiểm xã hội thành phố T xác nhận bị đơn có tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp từ tháng 01/2021 đến tháng 6/2024 cho nguyên đơn nhưng bị đơn chưa đóng, bị đơn nợ tiền bảo hiểm từ tháng 10/2020 cho đến nay, nên chưa thể chốt sổ bảo hiểm xã hội cho nguyên đơn theo quy định của pháp luật. Quá trình tố tụng và tại phiên tòa, bị đơn cũng thừa nhận chưa đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp cho nguyên đơn từ tháng 01/2021 đến tháng 6/2024. Như vậy, việc bị đơn không đóng tiền bảo hiểm xã hội dẫn đến không xác nhận thời gian đóng bảo hiểm xã hội cho nguyên đơn được là vi phạm đến quyền lợi, hợp pháp của nguyên đơn theo quy định tại khoản 5 Điều 21 “5. Phối hợp với cơ quan bảo hiểm xã hội trả sổ bảo hiểm xã hội cho người lao động, xác nhận thời gian đóng bảo hiểm xã hội khi người lao động chấm dứt hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc hoặc thôi việc theo quy định của pháp luật” và là hành vi bị nghiêm cấm quy định tại khoản 1 Điều 17 “Trốn đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp” Luật bảo hiểm xã hội năm 2014 nên nguyên đơn yêu cầu bị đơn đóng và xác nhận thời gian đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp từ tháng 01/2021 cho đến tháng 6/2024 cho nguyên đơn là có căn cứ.
[5] Từ những phân tích trên, chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
[6] Về án phí lao động sơ thẩm: bị đơn phải chịu theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào các Điều 32, 40, 92, 147, 227, 228, 271 và 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự; căn cứ các Điều 90, 94 và 95 Bộ luật Lao động năm 2019; căn cứ các Điều 17, 19 và 21 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014; căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Hồ Niên L đối với Công ty TNHH S về việc “Tranh chấp về tiền lương và bảo hiểm xã hội”.
1.1. Buộc Công ty TNHH S có trách nhiệm trả cho bà Hồ Niên L tiền lương tháng 01/2024 và từ tháng 3/2024 đến tháng 7/2024 là 37.000.000 (ba mươi bảy triệu) đồng.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, người phải thi hành án không thi hành thì còn phải chịu tiền lãi theo mức lãi suất huy động tiền gửi do Ngân hàng N công bố vào thời điểm trả tiền.
1.2. Buộc Công ty TNHH S có trách nhiệm đóng và xác nhận thời gian đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp từ tháng 01/2021 cho đến tháng 6/2024 cho bà Hồ Niên L.
2. Án phí lao động sơ thẩm: Công ty TNHH S phải chịu 1.410.000 (một triệu bốn trăm mười nghìn) đồng.
3. Đương sự có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
4. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.
Bản án về tranh chấp tiền lương và bảo hiểm xã hội số 50/2024/LĐ-ST
Số hiệu: | 50/2024/LĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương |
Lĩnh vực: | Lao động |
Ngày ban hành: | 20/09/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về