TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 48/2024/LĐ-ST NGÀY 16/09/2024 VỀ TRANH CHẤP TIỀN LƯƠNG, TRANH CHẤP BẢO HIỂM XÃ HỘI
Ngày 16 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố D, tỉnh D xét xử sơ thẩm công khai vụ án Lao động thụ lý số: 208/2024/TLST-LĐ ngày 14 tháng 8 năm 2024 về việc “Tranh chấp về tiền lương, tranh chấp bảo hiểm xã hội” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 74/2024/QĐXXST-LĐ ngày 30 tháng 8 năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Ca Thị Ngọc D, sinh năm 2001. Thường trú: Khóm Đ, phường Đ, thị xã B, tỉnh Vĩnh Long. Địa chỉ liên hệ: số G, khu phố Đ, phường T, thành phố D, tỉnh D, có mặt.
- Bị đơn: Công ty TNHH S. Địa chỉ: số D đường Đ, khu phố Đ, phường T, thành phố D, tỉnh D. Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Thanh Đ, sinh năm 1970. Địa chỉ liên hệ: Văn phòng L, tầng 9 Toà nhà VNO, số A, đường Đ, phường Đ, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh (Hợp đồng ủy quyền ngày 28/8/2024), có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Bảo hiểm xã hội thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh. Địa chỉ: số D đường Đ, phường T, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh. Người đại diện theo ủy quyền: Ông Lê Bảo V, sinh năm 1973; địa chỉ: số D, đường Đ, phường T, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh (Giấy ủy quyền ngày 16/9/2024), có yêu cầu giải quyết vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
- Theo Đơn khởi kiện ngày 12 tháng 8 năm 2024 và các lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn bà Ca Thị Ngọc D trình bày:
Bà Ca Thị Ngọc D là công nhân làm việc tại Công ty TNHH S (gọi là Công ty S), địa chỉ: số D, đường Đ, khu phố Đ, phường T, thành phố D, tỉnh D. Bà Ca Thị Ngọc D làm việc tại Công ty S và có ký Hợp đồng lao động với Công ty vào ngày 01/4/2021 đến 26/10/2021 thì ký quyết định về việc chấm dứt hợp đồng lao động nhưng thực tế bà D làm việc thời vụ cho Công ty từ tháng 4/2021 đến tháng 12/2021, đảm nhận vị trí công nhân may, với mức lương cơ bản là 5.675.280 đồng, ngoài ra còn có phụ cấp tay nghề là 2.244.720 đồng, phụ cấp chuyên cần là 1.200.000 đồng, phụ cấp đi lại là 520.000 đồng, tiền cơm là 675.000 đồng. Tổng cộng tạm tính là 10.315.000 đồng. Trong thời gian bà D làm việc tại Công ty, mỗi tháng Công ty vẫn trích từ tiền lương của bà D để đóng bảo hiểm. Tuy nhiên từ tháng 8/2021 đến tháng 12/2021, Công ty S chưa đóng bảo hiểm cho bà D.
Bên cạnh đó, sau khi nghỉ việc từ tháng 12/2021 thì tháng 3/2022, bà D quay trở lại làm việc thời vụ cho Công ty và không ký hợp đồng lao động đến tháng 6/2024 thì nghỉ. Công ty S không trả lương từ tháng 01/2024 đến tháng 6/2024 cho bà D với số tiền tạm tính là 38.650.000 đồng. Bà D nhiều lần liên hệ Công ty S yêu cầu Công ty trả tiền lương cho bà D nhưng không nhận được phản hồi từ phía Công ty.
Công ty S không đóng bảo hiểm cho bà D từ tháng 8/2021 đến tháng 12/2021 và không trả tiền từ tháng 01/2024 đến tháng 6/2024 cho bà D đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bà D. Nay bà D khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết:
1. Buộc Công ty TNHH S có trách nhiệm trả cho bà Ca Thị Ngọc D tiền lương và phụ cấp từ tháng 01/2024 đến tháng 6/2024 số tiền là 38.650.000 đồng.
2. Buộc Công ty TNHH S có trách nhiệm đóng và xác nhận thời gian tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp trong khoảng thời gian từ tháng 8/2021 đến tháng 12/2021 cho bà Ca Thị Ngọc D.
- Tại văn bản ý kiến và tại phiên tòa, bị đơn Công ty TNHH S trình bày:
Bà Ca Thị Ngọc D có làm việc cho Công ty S tại địa chỉ: số D, đường Đ, khu phố Đ, phường T, thành phố D, tỉnh D. Hiện nay, Công ty S còn nợ tiền lương, phụ cấp lương từ tháng 01/2024 đến tháng 6/2024 số tiền 38.650.000 đồng (đã thanh toán 8.326.000 đồng). Nay, bà D khởi kiện, yêu cầu Công ty S phải thanh toán số tiền lương còn nợ là 38.650.000 đồng thì Công ty S đồng ý thanh toán cho bà D số tiền lương còn nợ nêu trên.
Công ty S chưa đóng bảo hiểm xã hội và chưa lập hồ sơ xác nhận bảo hiểm xã hội từ tháng 8/2021 đến tháng 12/2021 cho bà Ca Thị Ngọc D. Đồng thời Công ty S chưa đóng bảo hiểm thất nghiệp cho bà Ca Thị Ngọc D từ tháng 8/2021 đến tháng 12/2021 và chưa lập hồ sơ xác nhận bảo hiểm thất nghiệp cho bà D từ tháng 8/2021 đến tháng 12/2021.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Bảo hiểm xã hội thành phố T trình bày:
Căn cứ dữ liệu của ngành Bảo hiểm xã hội, người lao động Ca Thị Ngọc D (sinh ngày 27/02/2001, mã số bảo hiểm xã hội 862185xxxx, số căn cước công dân 08630100xxxx) có quá trình tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp tại Công ty TNHH S như sau:
- Từ tháng 08/2021 đến tháng 12/2021, chức vụ, chức danh công việc là công nhân, mức đóng là 5.675.280 đồng.
Tính đến tháng 7/2024, Công ty S còn nợ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp số tiền 1.944.331.112 đồng, đóng bảo hiểm xã hội hết tháng 9/2020. Bảo hiểm xã hội thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh không lưu giữ bản sao giấy đăng ký doanh nghiệp của Công ty S và các hợp đồng lao động đã ký kết giữa người lao động và người sử dụng lao động.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố D, tỉnh D tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến: Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử, trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Những người tham gia tố tụng đã chấp hành đúng pháp luật tố tụng, đã thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo quy định; không kiến nghị khắc phục, bổ sung các thủ tục tố tụng. Về nội dung vụ án: Căn cứ vào tài liệu chứng cứ Tòa án thu thập và các đương sự cung cấp đã được thẩm tra tại phiên tòa, yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có cơ sở chấp nhận toàn bộ. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết: nguyên đơn khởi kiện tranh chấp tiền lương và bảo hiểm xã hội phát sinh từ quan hệ lao động với bị đơn. Nguyên đơn lựa chọn Tòa án nơi làm việc giải quyết tranh chấp, cụ thể nơi nguyên đơn làm việc tại số D, đường Đ, khu phố Đ, phường T, thành phố D, tỉnh D. Vì vậy, đây là vụ án “Tranh chấp về tiền lương, tranh chấp bảo hiểm xã hội” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố D, tỉnh D được quy định tại khoản 1 Điều 32, điểm đ khoản 1 Điều 40 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về sự vắng mặt của đương sự: Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt. Do đó, căn cứ khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
[3] Quá trình tố tụng, nguyên đơn và bị đơn đều thống nhất số tiền lương còn nợ, chưa đóng và xác nhận thời gian bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp cho nguyên đơn theo quy định. Đây là sự thừa nhận của các đương sự nên không cần phải chứng minh theo quy định tại Điều 92 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
[4] Về nội dung:
[4.1] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về tranh chấp bảo hiểm xã hội:
Căn cứ vào sự thừa nhận của các đương sự có cơ sở xác định giữa nguyên đơn với bị đơn có quan hệ lao động với nhau. Quan hệ lao động giữa nguyên đơn và bị đơn trên tinh thần tự nguyện, không trái quy định của pháp luật nên có giá trị và hiệu lực thi hành. Quá trình làm việc nguyên đơn được bị đơn tham gia bảo hiểm xã hội tại Bảo hiểm xã hội thành phố T và hàng tháng bị đơn vẫn trích tiền lương của nguyên đơn để tham gia bảo hiểm xã hội nhưng bị đơn không đóng cho Cơ quan bảo hiểm xã hội nên Cơ quan bảo hiểm xã hội không chốt số cho bà D theo quy định được.
Việc đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc là trách nhiệm của người sử dụng lao động và người lao động theo quy định tại khoản 1 Điều 19 “Trách nhiệm của người lao động 1. Đóng bảo hiểm xã hội theo quy định của Luật này...” và khoản 2 Điều 21 “Trách nhiệm của người sử dụng lao động 2. Đóng bảo hiểm xã hội theo quy định tại Điều 86 và hàng tháng trích từ tiền lương của người lao động theo quy định tại khoản 1 Điều 85 của Luật này để đóng cùng một lúc vào quỹ bảo hiểm xã hội...” Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014. Theo lời trình bày của người đại diện hợp pháp của Bảo hiểm xã hội thành phố T xác nhận Công ty S có tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp cho bà D từ tháng 8/2021 đến tháng 12/2021. Tuy nhiên, tính đến 7/2024 Công ty S mới chỉ đóng Bảo hiểm xã hội hết tháng 9/2020. Như vậy, khoảng thời gian từ tháng 8/2021 đến tháng 12/2021, bị đơn đang nợ tiền bảo hiểm xã hội nên chưa thể chốt số bảo hiểm xã hội cho nguyên đơn theo quy định của pháp luật.
Quá trình tố tụng, nguyên đơn Công ty S cũng thừa nhận chưa đóng bảo hiểm xã hội và chưa lập hồ sơ xác nhận bảo hiểm xã hội từ tháng 8/2021 đến tháng 12/2021 cho bà Ca Thị Ngọc D. Đồng thời Công ty S chưa đóng bảo hiểm thất nghiệp cho bà Ca Thị Ngọc D từ tháng 8/2021 đến tháng 12/2021 và chưa lập hồ sơ xác nhận bảo hiểm thất nghiệp cho bà D từ tháng 8/2021 đến tháng 12/2021.
Như vậy, việc bị đơn đã trừ tiền lương hàng tháng của nguyên đơn nhưng không trích nộp tiền bảo hiểm xã hội, không chốt số bảo hiểm xã hội cho nguyên đơn là vi phạm đến quyền lợi hợp pháp của nguyên đơn theo quy định tại khoản 5 Điều 21 “5. Phối hợp với cơ quan bảo hiểm xã hội trả sổ bảo hiểm xã hội cho người lao động, xác nhận thời gian đóng bảo hiểm xã hội khi người lao động chấm dứt hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc hoặc thôi việc theo quy định của pháp luật” và là hành vi bị nghiêm cấm quy định tại khoản 1 Điều 17 “Trốn đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp” Luật bảo hiểm xã hội năm 2014 nên yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ chấp nhận.
[4.2] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về tranh chấp tiền lương:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn bà D cung cấp là bảng lương từ tháng 01/2024 đến tháng 6/2024 và lời trình bày của người đại diện hợp pháp của bị đơn trong quá trình tố tụng, có căn cứ xác định rằng: tiền lương, tháng lương, phụ cấp từ tháng 01/2024 đến tháng 6/2024 của bà D là 46.976.000 đồng, trong đó Công ty S đã thanh toán được số tiền là 8.326.000 đồng. Nguyên đơn Công ty S đồng ý thanh toán số tiền lương, phụ cấp còn nợ bà D là 38.650.000 đồng. Việc bị đơn không thanh toán tiền lương đầy đủ, đúng hạn cho nguyên đơn là vi phạm quy định về nguyên tắc trả lương tại Điều 94, 95 của Bộ luật Lao động năm 2019, nguyên đơn yêu cầu bị đơn trả tiền lương còn thiếu từ tháng 01/2024 đến tháng 6/2024 là có căn cứ chấp nhận.
[5] Từ những phân tích trên có cơ sở chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.
[6] Về án phí: Nguyên đơn bà Ca Thị Ngọc D được miễn án phí. Bị đơn Công ty S phải chịu án phí lao động sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào các Điều 32, 40, 92, 147, 227, 228, 271 và 273 của Bộ luật Tố tụng Dân sự; căn cứ các Điều 47, 90, 94 và 95 của Bộ luật Lao động năm 2019; căn cứ các Điều 17, 19 và 21 của Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014; căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Ca Thị Ngọc D đối với bị đơn Công ty TNHH S về việc “Tranh chấp về tiền lương, tranh chấp bảo hiểm xã hội”.
1.1 Buộc Công ty TNHH S có trách nhiệm trả cho bà Ca Thị Ngọc D tiền lương và phụ cấp từ tháng 01/2024 đến tháng 6/2024 số tiền là 38.650.000 đồng.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, người phải thi hành án không thi hành thì còn phải chịu tiền lãi theo mức lãi suất huy động tiền gửi do Ngân hàng N công bố vào thời điểm trả tiền.
1.2 Buộc Công ty TNHH S có trách nhiệm đóng và xác nhận thời gian tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp trong khoảng thời gian từ tháng 8/2021 đến tháng 12/2021 cho bà Ca Thị Ngọc D.
2. Về án phí lao động sơ thẩm: Công ty TNHH S phải chịu 1.159.500 đồng án phí có giá ngạch và 300.000 đồng án phí không có giá ngạch.
3. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
4. Nguyên đơn, bị đơn có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án về tranh chấp tiền lương, tranh chấp bảo hiểm xã hội số 48/2024/LĐ-ST
Số hiệu: | 48/2024/LĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương |
Lĩnh vực: | Lao động |
Ngày ban hành: | 16/09/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về