TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LONG KHÁNH, TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 02/2024/DS-ST NGÀY 25/09/2024 VỀ TRANH CHẤP TIỀN LƯƠNG
Vào ngày 25 tháng 9 năm 2024, tại Hội trường B, Toà án nhân dân huyện Long Khánh xét xử sơ thẩm công khai vụ án lao động thụ lý số 05/2024/LĐ-ST ngày 21/02/2024 về việc “Tranh chấp về tiền lương” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 128/2024/QĐXXST-DS ngày 19/8/2024 và quyết định hoãn phiên toà số 114/2024/HPT-ST ngày 04/9/2024 giữa các đương sự:
* Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Tuyết T, sinh năm 1983.
Địa chỉ: ấp X, xã X, huyện T, tỉnh Đồng Nai.
* Bị đơn: Công ty TNHH V Địa chỉ: Nhà X, đường số C, khu công nghiệp L, xã B, thành phố L, tỉnh Đồng Nai.
Đại diện theo pháp luật: Bà Phạm Thị T1, Giám đốc. Địa chỉ: Khu dân cư L, 89, H, phường P, Quận G, TP . (Chị T có đơn xin xét xử vắng mặt, bị đơn vắng mặt không có lý do).
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Theo đơn khởi kiện, bản tự khai nguyên đơn chị Nguyễn Thị Tuyết T trình bày:
Ngày 18/9/2023, chị có xin vào làm việc tại công ty TNHH V. Sau 02 tháng thử việc, ngày 01/12/2023 chị đã ký hợp đồng lao động có thời hạn với công ty từ ngày 01/12/2023 đến ngày 25/12/2023. Vị trí làm việc là nhân viên kế hoạch sản xuất, mức lương 9.500.000đ/tháng.
Vì lý do cá nhân nên ngày 19/12/2023 chị có nhắn tin đến bà T1 - Giám đốc công ty thông báo việc sẽ nghỉ việc khi hết hạn hợp đồng. Ngày 23/12/2023 là ngày làm cuối cùng của chị và hôm sau là cuối tuần nên sau đó chị nghỉ luôn.Tổng ngày công làm việc của chị là 20 ngày, lương thực lãnh kế toán có cho biết thông tin là chị được nhận 7.308.000đ. Công ty thanh toán lương cho công nhân vào ngày 10 hàng tháng. Tháng 01/2024, công ty vẫn không trả lương cho chị, chị có liên hệ với kế toán thì được biết giám đốc cứ hẹn, chưa cho chi lương cho chị.
Do đã lâu mà công ty không thanh toán nên chị đã làm đơn qua liên đoàn lao động. Phía liên đoàn lao động đã mời hai bên lên làm việc vào ngày 06/02/2024 nhưng bên công ty vắng mặt không có lý do nên chị đã khởi kiện ra Toà án.
Nay chị đề nghị Toà án buộc công ty TNHH V có nghĩa vụ thanh toán cho chị số tiền 7.308.000đ (Bảy triệu ba trăm lẻ tám ngàn đồng). Ngoài ra không còn yêu cầu nào khác.
* Bị đơn công ty TNHH V đã được Toà án tống đạt hợp lệ nhưng vắng mặt không trình bày.
* Ý kiến của Viện kiểm sát tại phiên tòa:
Về thủ tục tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án đến nay, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa chấp hành đúng thủ tục tố tụng theo quy định pháp luật. Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn chấp hành đúng quyền, nghĩa vụ của mình khi tham gia tố tụng, bị đơn chưa chấp hành tốt.
Về thời hạn: Thụ lý ngày 21/02/2024, ngày 06/5/2024 Toà án tạm đình chỉ giải quyết vụ án chờ kết quả trả lời của Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Đ. Ngày 03/8/2024 tiếp tục giải quyết vụ án và ngày 26/8/2024 ra Quyết định đưa vụ án ra xét xử là đúng thời hạn.
Về nội dung vụ án: chị Nguyễn Thị Tuyết T đề nghị Toà án buộc công ty TNHH V có nghĩa vụ thanh toán cho chị số tiền lương 7.308.000đ (Bảy triệu ba trăm lẻ tám ngàn đồng).
Giữa chị T và công ty TNHH V có ký hợp đồng lao động số 23/HĐLĐ ngày 01/12/2023 có xác định thời hạn từ ngày 01/12/2023 đến ngày 25/12/2023; chức danh chuyên môn là nhân viên kế hoạch sản xuất với mức lương chính là 5.700.000đ, trợ cấp hiệu suất công việc 3.800.000đ, tổng lương và trợ cấp là 9.500.000đ, trả lương vào ngày 10 hàng tháng. Chị T đã làm đến hết ngày 23/12/2023 và ngày 19/12/2023 đã báo cho giám đốc công ty biết việc hết thời hạn hợp đồng chị sẽ nghỉ việc (bằng tin nhắn trên Zalo, phía công ty có phản hồi tin nhắn). Sau khi chị nghỉ việc, công ty đã không thanh toán tiền lương cho chị nên chị khởi kiện.
Tòa án đã tống đạt các văn bản, thông báo cho công ty TNHH V về nội dung khởi kiện của nguyên đơn, bị đơn đã nhận nhưng vắng mặt không có lý do, không đưa ra chứng cứ, yêu cầu phản bác lại yêu cầu của nguyên đơn.
Ngày 30/7/2024, Phòng đăng ký kinh doanh Sở Kế hoạch và đầu tư tỉnh Đ đã có công văn số 482/ĐKKD cho biết Công ty TNHH V được cấp Giấy chứng nhận doanh nghiệp lần đầu ngày 16/8/2022, mã số doanh nghiệp 3603881716, đăng ký thay đổi lần 2 ngày 24/5/2023; Địa chỉ trụ sở chính tại: Nhà X, đường số C, khu công nghiệp L, xã B, thành phố L, tỉnh Đồng Nai. Người đại diện theo pháp luật là bà Phạm Thị T1, chức danh: Chủ tịch Công ty kiêm Giám đốc. Địa chỉ: Khu dân cư L, 89, H, phường P, Quận G, TP . Tình trạng pháp lý: công ty ở tình trạng đang hoạt động, chưa thực hiện đăng ký thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp hoặc tạm ngừng kinh doanh hoặc giải thể kể từ ngày đăng ký thay đổi lần thứ 2 ngày 24/5/2023 đến nay.
Tại Điều 5 của Hợp đồng lao động quy định về đơn phương chấm dứt hợp đồng đối với người lao động: “Người lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động căn cứ theo Điều 35 Bộ Luật lao động năm 2019”.
Vì vậy đề nghị Tòa án : Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Tuyết T về việc tranh chấp tiền lương. Buộc Công ty TNHH V có nghĩa vụ trả cho chị Nguyễn Thị Tuyết T số tiền là 7.308.000đ (Bảy triệu ba trăm lẻ tám ngàn đồng).
Án phí: Công ty phải nộp theo quy định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về quan hệ pháp luật: Chị Nguyễn Thị Tuyết T khởi kiện yêu cầu Toà án buộc công ty TNHH V có nghĩa vụ thanh toán cho chị số tiền 7.308.000đ (Bảy triệu ba trăm lẻ tám ngàn đồng) tiền lương nên quan hệ pháp luật là “Tranh chấp tiền lương”.
[2] Về tố tụng và thẩm quyền giải quyết: Theo quy định tại khoản 1, Điều 188, Bộ luật Lao động năm 2019, tranh chấp về tiền lương bắt buộc phải trải qua thủ tục hòa giải bởi Hòa giải viên Lao động, sau đó mới được khởi kiện tại Tòa án.
Ngày 06/02/2024, Phòng L2 đã tiến hành hoà giải tranh chấp lao động giữa chị Nguyễn Thị Tuyết T với công ty TNHH V. Kết quả hoà giải không thành do phía công ty vắng mặt không có lý do nên chị T khởi kiện ra Toà án là đúng quy định.
Bị đơn công ty TNHH V đóng tại địa chỉ ngụ tại Nhà X, đường số C, khu công nghiệp L, xã B, thành phố L, tỉnh Đồng Nai nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Long Khánh theo quy định tại Điều 32 và Điều 35 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[3] Về tư cách tham gia tố tụng: Chị Nguyễn Thị Tuyết T khởi kiện công ty TNHH V nên chị T là nguyên đơn. Công ty là người bị kiện trong vụ tranh chấp đòi tiền lương nên là bị đơn.
Toà án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho công ty nhưng công ty vắng mặt không có lý do nên Toà án căn cứ vào Điều 227, 228 - Bộ luật Tố tụng dân sự giải quyết theo thủ tục chung.
[4] Về thời hiệu giải quyết vụ án: Chị xác định sau khi chấm dứt hợp đồng lao động với công ty vào ngày 25/12/2023 thì Công ty còn nợ lương chị tháng 12/2023. Công ty chưa trả lương nên ngày 21/02/2024 chị gửi đơn khởi kiện đến Tòa án yêu cầu. Căn cứ khoản 3, Điều 190, Bộ luật Lao động năm 2019, thời hiệu yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp là 01 năm kể từ ngày phát hiện quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị vi phạm. Do đó thời hiệu giải quyết của vụ án vẫn còn đảm bảo đúng theo quy định tại Điều 202 - Bộ luật lao động.
[5] Về nội dung vụ án: Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, nhận thấy:
Giữa chị T và công ty TNHH V có ký hợp đồng lao động số 23/HĐLĐ ngày 01/12/2023 có xác định thời hạn từ ngày 01/12/2023 đến ngày 25/12/2023. Chức danh chuyên môn là nhân viên kế hoạch sản xuất với mức lương chính là 5.700.000đ, trợ cấp hiệu suất công việc 3.800.000đ, tổng lương và trợ cấp là 9.500.000đ, trả lương vào ngày 10 hàng tháng. Hội đồng xét xử xét thấy, hợp đồng lao động ký kết giữa các bên là hoàn toàn tự nguyện, phù hợp với quy định pháp luật nên có giá trị pháp lý làm cơ sở cho việc giải quyết vụ án.
Chị T đã làm đến hết ngày 23/12/2023 và ngày 19/12/2023 đã báo cho giám đốc công ty biết việc hết thời hạn hợp đồng chị sẽ nghỉ việc. Sau khi chị nghỉ việc, công ty không thanh toán tiền lương cho chị nên chị khởi kiện.
Tại Điều 5 của Hợp đồng lao động quy định về đơn phương chấm dứt hợp đồng đối với người lao động: “Người lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động căn cứ theo Điều 35 Bộ Luật lao động năm 2019”.
Quá trình làm việc, Tòa án đã tống đạt các văn bản, thông báo cho công ty TNHH V về nội dung khởi kiện của nguyên đơn, bị đơn đã nhận nhưng vắng mặt không có lý do.
Theo quy định tại Điều 91 Bộ luật tố tụng dân sự, nguyên đơn có nghĩa vụ cung cấp, giao nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ chứng minh cho yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp; đương sự phản đối yêu cầu của người khác đối với mình phải thể hiện bằng văn bản và phải thu thập, cung cấp, giao nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho sự phản đối đó.
Để chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của mình, tại (BL 17), chị T có cung cấp tin nhắn giữa chị với người được cho là Giám đốc công ty - bà T1 với tên Phạm T2 vào ngày 19/12/2023 với nội dung: “Ch ơi, ngày 25/12 này em hết hạn hợp đồng rồi, nên hết tuần này em nghỉ việc luôn nhé chị” Cũng trong ngày, tên tài khoản Phạm T2 trả lời: “Em tính nghỉ luôn thật hả”, chị T trả lời “Dạ chị”. Đây chính là thông báo của chị T đến công ty về việc nghỉ làm.
Chị T đã đi làm đến hết ngày 23/12/2023, sau đó là chủ nhật, chị đã nghỉ việc. Kế toán công ty là chị T3 (không rõ họ tên) đã cung cấp cho chị bằng lương tháng 12/2023 tên các công nhân lãnh lương, trong đó, khối văn phòng có tên chị Nguyễn Thị Tuyết T và lương thực lãnh của chị là 7.308.000đ (BL 16). Toà án có yêu cầu nguyên đơn cung cấp tên, địa chỉ của kế toán nhưng nguyên đơn cho biết kế toán không đồng ý lên toà làm chứng vì không liên quan và hiện nay bận đi làm.
Tại (BL 21) ngày 07/3/2024, Tòa án nhân dân thành phố Long Khánh, tỉnh Đồng Nai ban hành thông báo số 12/TB-TA cho Công ty TNHH V phải giao nộp cho Tòa án các tài liệu (bản sao có chứng thực) gồm:
Các giấy tờ chứng minh tư cách pháp lý của Công ty và người đại diện theo pháp luật của Công ty; Các giấy tờ liên quan đến việc ký hợp đồng lao động, trả lương đối với chị Nguyễn Thị Tuyết T; Bản tự khai đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tuy nhiên, Công ty không trả lời.
Tại (BL24), Toà án đã có công văn số 168/CV-TA ngày 25/3/2024 gửi đến Sở Kế hoạch và đầu tư tỉnh Đ đề nghị cung cấp thông tin Công ty Trách nhiệm hữu hạn V có đăng ký hoạt động tại địa chỉ Nhà X, đường số C, khu công nghiệp L, xã B, thành phố L không? Hiện có còn đóng tại địa chỉ trên hay không? Cung cấp tài liệu, chứng cứ liên quan đến thành lập và đăng ký hoạt động của công ty (tư cách pháp nhân).
Tại (BL38), Phòng đăng ký kinh doanh Sở Kế hoạch và đầu tư tỉnh Đ đã có công văn số 482/DKKD ngày 30/7/2024 cho biết Công ty TNHH V được cấp Giấy chứng nhận doanh nghiệp lần đầu ngày 16/8/2022, mã số doanh nghiệp 3603881716, đăng ký thay đổi lần 2 ngày 24/5/2023; Địa chỉ trụ sở chính tại: Nhà X, đường số C, khu công nghiệp L, xã B, thành phố L, tỉnh Đồng Nai. Người đại diện theo pháp luật là bà Phạm Thị T1, chức danh: Chủ tịch Công ty kiêm Giám đốc. Địa chỉ: Khu dân cư L, 89, H, phường P, Quận G, TP .
Tình trạng pháp lý: công ty ở tình trạng đang hoạt động, chưa thực hiện đăng ký thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp hoặc tạm ngừng kinh doanh hoặc giải thể kể từ ngày đăng ký thay đổi lần thứ 2 ngày 24/5/2023 đến nay.
Quá trình giải quyết vụ án, Toà án đã triệu tập bị đơn lên làm việc nhưng bị đơn vắng mặt không lý do.
Theo quy định tại Điều 91 Bộ luật tố tụng dân sự, nguyên đơn có nghĩa vụ cung cấp, giao nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ chứng minh cho yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp; bị đơn phản đối yêu cầu của người khác đối với mình phải thể hiện bằng văn bản và phải thu thập, cung cấp, giao nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho sự phản đối đó.
Toà án đã triệu tập hợp lệ nhưng phía công ty không lên làm việc, không có văn bản nêu ý kiến phản đối gửi đến Toà án theo khoản 2, Điều 91 BLTTDS năm 2015 nên Hội đồng xét xử căn cứ các tài liệu, chứng cứ và nội dung khởi kiện của chị T để làm cơ sở giải quyết vụ kiện theo quy định tại khoản 2, Điều 92, 93, 95 - BLTTDS, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị T, buộc công ty TNHH V trả tiền lương là có cơ sở.
Theo đơn khởi kiện, chị T yêu cầu trả tiền lương tháng 12 là 7.308.000đ (Bảy triệu ba trăm lẻ tám ngàn đồng). Yêu cầu trên là có cơ sở nên chấp nhận.
[6] Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Ý kiến của Viện kiểm sát phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ các Điều 32, 35 và Điều 70, 39, 91, 92, 93, 95, 227, 228 - Bộ luật tố tụng dân sự Căn cứ Điều 90, 94, 95, 96, 97, Điều 180, Điều 188, khoản 3 Điều 190 của Bộ Luật lao động năm 2019 Căn cứ các Điều 3, 5 của Nghị định 90/2019/NĐ-CP ngày 15/11/2019 quy định mức lương tối thiểu vùng đối với người lao động làm việc theo hợp đồng lao động;
Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH1430/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Toà án.
1/ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Tuyết T về việc tranh chấp tiền lương.
Buộc Công ty TNHH V có nghĩa vụ trả cho chị Nguyễn Thị Tuyết T số tiền là 7.308.000đ (Bảy triệu ba trăm lẻ tám ngàn đồng).
2/ Về án phí lao động: Công ty TNHH V phải chịu án phí 219.240đ (Hai trăm mười chín ngàn hai trăm bốn mươi đồng).
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của chị Nguyễn Thị Tuyết T cho đến khi thi hành của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành xong tất cả các số tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiến lãi của khoản tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.
Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014; thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự năm 2008.
Nguyên đơn, bị đơn được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày tròn kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tranh chấp tiền lương số 02/2024/DS-ST
Số hiệu: | 02/2024/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Long Khánh - Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 25/09/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về