TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THỦ ĐỨC, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 853/2024/LĐ-ST NGÀY 19/03/2024 VỀ TRANH CHẤP TIỀN LƯƠNG, BẢO HIỂM XÃ HỘI, BẢO HIỂM Y TẾ, BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP
Ngày 19 tháng 3 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử sơ thẩm công khai Vụ án lao động thụ lý số: 133/2023/TLST-LĐ ngày 16/10/2023 về việc “Tranh chấp tiền lương, BHXH, BHYT, BHTN” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 548/2024/QĐXXST-DS ngày 31/01/2024, Quyết định hoãn phiên tòa số: 121/2024/QĐST-DS ngày 22/02/2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Trần Thị Thảo N, sinh năm 1998.
Địa chỉ: 2 Đường A, phường T, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).
- Bị đơn: Công ty Cổ phần T.
Địa chỉ trụ sở: 299B11 đường T, khu B, phường A, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Huỳnh Ngọc H. Địa chỉ liên hệ: 299B11 đường T, khu B, phường A, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh, (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo Đơn khởi kiện, Bản tự khai và quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án, nguyên đơn bà Trần Thị Thảo N trình bày:
Bà N làm việc tại Công ty Cổ phần T (sau đây gọi là Công ty T) từ ngày 14/4/2022 đến ngày 13/4/2023 theo Hợp đồng lao động số 00122/2022/HĐLĐ-ADHPP. Ngày 15/3/2023, Công ty T có Quyết định chấm dứt Hợp đồng lao động số 007/2023/QĐ-ADHPP về việc chấm dứt lao động với bà N. Tại thời điểm chấm dứt lao động, Công ty T còn nợ bà N số tiền lương là 51.348.246 đồng theo Bảng xác nhận công nợ ngày 23/3/2023. Đồng thời, sau khi nghỉ việc bà mới biết, trong suốt quá trình bà làm việc tại đây Công ty T không thực hiện việc đóng các khoản bảo hiểm cho bà theo quy định. Do đó, bà N khởi kiện yêu cầu Công ty T phải thanh toán toàn bộ số tiền lương còn thiếu cho bà là 51.348.246 đồng và hoàn thành việc đóng các khoản bảo hiểm trong thời gian bà làm việc tại công ty theo quy định.
- Bị đơn Công ty T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến Tòa án để giải quyết vụ án nhưng không đến nên không ghi nhận được ý kiến trình bày.
Tại phiên tòa:
- Nguyên đơn bà Trần Thị Thảo N trình bày và xác định yêu cầu khởi kiện: Buộc Công ty T thanh toán số tiền lương còn nợ cho bà số tiền 51.348.246 đồng; buộc Công ty T đóng đầy đủ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho bà trong thời gian bà làm việc tại công ty từ ngày 14/4/2022 đến ngày 13/4/2023 theo quy định.
- Bị đơn mặc dù đã được Tòa án tống đạt văn bản tố tụng tham gia phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt không có lý do.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:
+ Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử, đương sự đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự trong quá trình thụ lý sơ thẩm và xét xử. Về phía các đương sự đã thực hiện đầy đủ các quyền của mình theo Bộ luật tố Tụng dân sự năm 2015.
+ Về nội dung: Đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà N về nội dung: Buộc Công ty T thực hiện việc đóng đầy đủ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho bà N trong thời gian bà N làm việc ở công ty theo quy định; buộc Công ty T thanh toán số tiền lương còn nợ cho bà N số tiền 51.348.246 đồng. Án phí đương sự phải chịu theo quy định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết:
- Căn cứ Hợp đồng lao động số 00122/2022/HĐLĐ-ADHPP ngày 14/4/2022, Quyết định chấm dứt hợp đồng lao động số 007/2023/QĐ-ADHPP ngày 15/3/2023 của Công ty T thể hiện Công ty T có ký hợp đồng lao động và chấm dứt hợp đồng lao động với bà Trần Thị Thảo N, thời gian chấm dứt hợp đồng kể từ ngày 15/3/2023. Như vậy, có đủ cơ sở để xác định giữa Công ty T và bà Trần Thị Thảo N có quan hệ lao động.
- Sau khi chấm dứt lao động tại công ty, do có tranh chấp về khoản tiền lương chưa được thanh toán và một số chính sách về bảo hiểm xã hội chưa được giải quyết nên bà N có yêu cầu Phòng Lao động, Thương binh và Xã hội thành phố T tiến hành hòa giải cơ sở theo quy định. Do đại diện bị đơn vắng mặt nên các bên có lập Biên bản hòa giải không thành vào các ngày 30/6/2023 và 06/7/2023.
Ngày 11/7/2023, bà N nộp đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân thành phố Thủ Đức buộc Công ty T thanh toán tiền lương còn nợ tổng cộng là 51.348.246 đồng và thực hiện việc đóng đầy đủ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho bà trong thời gian bà làm việc tại công ty. Do đó, có cơ sở xác định quan hệ tranh chấp giữa các bên trong vụ án này là tranh chấp lao động về yêu cầu thanh toán tiền lương, đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp quy định tại khoản 1 Điều 32 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 (sau đây viết là BLTTDS) và quan hệ tranh chấp này đã được thực hiện thủ tục hòa giải theo quy định Điều 188 Bộ luật Lao động năm 2019 (sau đây viết là Bộ luật Lao động).
- Công ty T là pháp nhân có trụ sở tại thành phố T do đó căn cứ khoản 1 Điều 32, điểm c khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 BLTTDS, vụ án thuộc thẩm quyền thụ lý, giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh.
[2] Về thủ tục tố tụng:
- Về thời hiệu khởi kiện: Bà N yêu cầu giải quyết tranh chấp lao động cá nhân, thời hiệu khởi kiện là 01 năm theo quy định tại khoản 3 Điều 190 Bộ luật Lao động. Ngày 15/3/2023 bà N nghỉ việc, sau đó do Công ty T không thực hiện thanh toán đủ tiền lương nên bà đi khởi kiện ngày 11/7/2023 là còn trong thời hiệu khởi kiện. Tuy nhiên, các đương sự trong vụ án không yêu cầu tính thời hiệu khởi kiện nên căn cứ khoản 2 Điều 184 Bộ luật Tố tụng dân sự Hội đồng xét xử không xem xét.
- Bị đơn - Công ty T đã được Toà án triệu tập phiên tòa hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt không có lý do, do đó căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 BLTTDS, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.
[3] Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, Hội đồng xét xử xét thấy:
[3.1] Đối với yêu cầu buộc bị đơn thanh toán tiền lương còn nợ.
Nguyên đơn khởi kiện cho rằng, sau khi chấm dứt hợp đồng lao động, bị đơn vẫn còn nợ lương chưa thanh toán, trong đó các khoản tiền lương cụ thể được liệt kê tại Bảng xác nhận công nợ ngày 23/3/2023, tổng số tiền nợ là 51.348.246 đồng. Kể từ ngày hai bên xác nhận công nợ, nguyên đơn đã nhiều lần liên hệ bị đơn yêu cầu thanh toán nợ lương và thực hiện thủ tục tất toán các khoản bảo hiểm theo quy định nhưng bị đơn vẫn không thực hiện.
Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tống đạt thông báo thụ lý vụ án, các thông báo về phiên hòa giải, phiên hợp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ cho bị đơn. Căn cứ theo điểm b khoản 1 Điều 91 của Bộ luật tố tụng dân sự thì bị đơn phải có trách nhiệm cung cấp, giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án. Tuy nhiên bị đơn không có ý kiến phản hồi liên quan đến vụ án. Căn cứ Bảng xác nhận công nợ ngày 23/3/2023 nêu trên, có đủ cơ sở xác định bị đơn còn nợ tiền lương lao động như nguyên đơn yêu cầu. Việc bị đơn chậm thanh toán tiền lương cho người lao động là vi phạm nguyên tắc về việc trả lương theo quy định tại Điều 96 Bộ luật Lao động, do đó nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn thanh toán số tiền nợ lương nêu trên là phù hợp quy định Điều 48, Điều 90, Điều 94, Điều 95 Bộ luật Lao động, có cơ sở nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[3.2] Đối với yêu cầu buộc bị đơn thực hiện đóng đầy đủ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp.
Tại khoản 2 Điều Điều 6 Bộ luật Lao động quy định: “Người sử dụng lao động có các nghĩa vụ ......đ) Thực hiện quy định của pháp luật về lao động, việc làm, giáo dục nghề nghiệp, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp,....”. Điều 21 Luật Bảo hiểm xã hội quy định trách nhiệm của người sử dụng lao động: “1. Lập hồ sơ để người lao động được cấp sổ bảo hiểm xã hội, đóng, hướng bảo hiểm xã hội. 2. Đóng bảo hiểm xã hội theo quy định tại Điều 86 và hằng tháng trích từ tiền lương của người lao động theo quy định tại khoản 1 Điều 85 của Luật này để đóng cùng một lúc vào quỹ bảo hiểm xã hội”. Bên cạnh đó, theo quy định khoản 2 Điều 5, Điều 14, khoản 1 Điều 18 Quyết định số 959/QĐ-BHXH ngày 09/9/2015 của B quy định về quản lý thu BHXH, BHYT, BHTN, quản lý số BHXH, thẻ BHYT nay là Quyết định số 595/QĐ-BHXH ngày 14/4/2017 đã quy định rõ về mức đóng bảo hiểm và trách nhiệm đóng BHXH, BHYT cụ thể của người lao động và người sử dụng lao động cho Cơ quan bảo hiểm xã hội theo Luật bảo hiểm xã hội. Như vậy, bị đơn là người sử dụng lao động thì phải có nghĩa vụ đóng BHXH, BHYT, BHTN cho nguyên đơn và nộp cho cơ quan Bảo hiểm xã hội theo quy định của Bộ luật Lao động và Luật Bảo hiểm xã hội.
Xét thấy, theo Công văn số 61/BHXH-TST ngày 09/01/2024 của Bảo hiểm xã hội thành phố T thể hiện: “Người lao động bà Trần Thị Thảo N có quá trình tham gia BHXH, BHYT, BHTN, BHTNLĐ, BNN tại Công ty Cổ phần T HPP từ tháng 04/2022 đến tháng 04/2023 mức đóng là 4.729.400 đồng. Tính đến tháng 12/2023, Công ty Cổ phần T đã hoàn tất trích nộp BHXH đến hết tháng 04/2021, số tiền chậm đóng BHXH, BHYT, BHTN, BHTNLĐ-BNN là 2.712.217.707 đồng”. Điều 44 Luật Việc làm quy định “1. Người sử dụng lao động phải tham gia bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động tại tổ chức bảo hiểm xã hội trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc có hiệu lực. 2. Hằng tháng, người sử dụng lao động đóng bảo hiểm thất nghiệp theo mức quy định tại điểm b khoản 1 Điều 57 của Luật này và trích tiền lương của từng người lao động theo mức quy định tại điểm a khoản 1 Điều 57 của Luật này để đóng cùng một lúc vào Quỹ bảo hiểm thất nghiệp”.
Như nhận định ở Mục [1] nguyên đơn làm việc cho bị đơn từ ngày 14/4/2022 đến ngày 15/3/2023 nhưng theo văn bản trả lời của cơ quan bảo hiểm xã hội thì bị đơn chỉ mới hoàn tất trích nộp bảo hiểm xã hội đến hết tháng 04/2021 và hiện còn chậm đóng BHXH, BHYT, BHTN, BHTNLĐ-BNN số tiền 2.712.217.707 đồng, như vậy có cơ sở xác định bị đơn chưa thực hiện việc đóng các khoản bảo hiểm cho nguyên đơn theo quy định. Do do đó nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn thực hiện việc đóng đầy đủ các khoản bảo hiểm nêu trên trong thời gian nguyên đơn làm việc là có cơ sở nên Hội đồng xét xử chấp nhận. Cụ thể, buộc bị đơn có nghĩa vụ tiếp tục truy đóng các khoản bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho nguyên đơn từ ngày 14/4/2022 đến ngày 15/3/2023.
Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Đức tại phiên tòa là phù hợp với nhận định nêu trên của Hội đồng xét xử nên chấp nhận toàn bộ.
Từ những phân tích nêu trên của Hội đồng xét xử và ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa, xét thấy yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có cơ sở nên chấp nhận toàn bộ. Buộc bị đơn Công ty T thanh toán cho nguyên đơn tiền lương còn nợ tổng cộng là 51.348.246 (năm mươi một triệu ba trăm bốn mươi tám nghìn hai trăm bốn mươi sáu) đồng theo Bảng xác nhận công nợ ngày 23/3/2023; buộc bị đơn có nghĩa vụ tiếp tục truy đóng các khoản bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho nguyên đơn từ ngày 14/4/2022 đến ngày 15/3/2023.
[4] Về án phí lao động sơ thẩm:
Căn cứ khoản 1 Điều 147 BLTTDS; Điều 12, Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng về án phí, lệ phí Tòa án thì nguyên đơn được miễn án phí; bị đơn - Công ty T phải chịu tiền án phí lao động sơ thẩm đối với phần yêu cầu của bà N được Tòa án chấp nhận. Cụ thể, chịu án phí lao động sơ thẩm có giá ngạch được tính trên số tiền 51.348.246 đồng, tương đương án phí 1.540.447 đồng.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ khoản 1 Điều 32; điểm c khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 1 Điều 91; Điều 94; khoản 1 Điều 147; khoản 2 Điều 184; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228; khoản 1 Điều 273; Điều 280 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
- Căn cứ Điều 357, khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015;
- Căn cứ khoản 2 Điều 6; Điều 48; Điều 90, Điều 94; Điều 95; Điều 188, khoản 3 Điều 190 Bộ luật Lao động năm 2019;
- Căn cứ Điều 21 Luật Bảo hiểm xã hội;
- Căn cứ Điều 44 Luật Việc làm;
- Căn cứ Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014);
- Căn cứ Điều 12, Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng về án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
1.1. Buộc Công ty Cổ phần T có nghĩa vụ trả cho bà Trần Thị Thảo N số tiền nợ lương là 51.348.246 (năm mươi một triệu ba trăm bốn mươi tám nghìn hai trăm bốn mươi sáu) đồng theo Bảng xác nhận công nợ ngày 23/3/2023.
Nguyên đơn có quyền yêu cầu thi hành án ngay sau khi nhận được bản án.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.
1.2. Buộc Công ty Cổ phần T có nghĩa vụ tiếp tục truy đóng các các khoản bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp đối với bà Trần Thị Thảo N từ ngày 14/4/2022 đến ngày 15/3/2023. Mức lương đóng bảo hiểm là 4.729.400 đồng/tháng.
Các bên thi hành tại Cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền.
2. Về án phí lao động sơ thẩm:
- Bà Trần Thị Thảo N không phải chịu án phí.
- Buộc Công ty Cổ phần T phải chịu án phí sơ thẩm số tiền 1.540.447 đồng (một triệu năm trăm bốn mươi nghìn bốn trăm bốn mươi bảy) đồng. Bị đơn chưa nộp án phí.
3. Về quyền yêu cầu thi hành án: Trường hợp quyết định này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 7a và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
4. Quyền kháng cáo, kháng nghị: Nguyên đơn được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án; bị đơn được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được cấp, tống đạt, niêm yết, thông báo theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Viện kiểm sát được quyền kháng nghị bản án theo quy định pháp luật./.
Bản án về tranh chấp tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp số 853/2024/LĐ-ST
Số hiệu: | 853/2024/LĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân TP. Thủ Đức - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Lao động |
Ngày ban hành: | 19/03/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về