Bản án về tranh chấp tiền hụi số 775/2025/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 775/2025/DS-PT NGÀY 18/07/2025 VỀ TRANH CHẤP TIỀN HỤI

Trong các ngày 14 và 18 tháng 7 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh (Cơ sở B) xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 218/2025/TLPT-DS ngày 04/6/2025 về việc “Tranh chấp tiền hụi”.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số 64/2025/DS-ST ngày 29/4/2025 của Tòa án nhân dân huyện D, tỉnh Bình Dương (nay là Tòa án nhân dân Khu vực 18 – Thành phố Hồ Chí Minh) bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 332/2025/QĐXX-PT, ngày 06 tháng 6 năm 2025; Quyết định hoãn phiên toà số 381/2025/QĐ-PT ngày 30/6/2025, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Thạch Thị Kim H, sinh năm 1974; địa chỉ: Ấp H, xã M, huyện D, tỉnh Bình Dương (nay là ấp H, xã M, thành phố Hồ Chí Minh), có mặt.

- Bị đơn: Bà Nguyễn Thị H1, sinh năm 1976; địa chỉ: Ấp C, xã M, huyện D, tỉnh Bình Dương (nay là ấp C, xã L, thành phố Hồ Chí Minh), có yêu cầu giải quyết vắng mặt.

Người kháng cáo: Bị đơn bà Nguyễn Thị H1.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo nội dung bản án sơ thẩm:

- Theo đơn khởi kiện ngày 04/12/2024, quá trình tố tụng giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn (bà Thạch Thị Kim H) trình bày:

Hiện nay, bà Thạch Thị Kim H đăng ký hộ khẩu thường trú và đang sinh sống tại ấp H, xã M, huyện D, tỉnh Bình Dương.

Bà Nguyễn Thị H1 là hụi viên tham gia chơi hụi do bà Thạch Thị Kim H làm chủ hụi. Bà Nguyễn Thị H1 tham gia dây hụi 1.000.000 đồng mở ngày 05/8/2023 với người chơi gồm có 24 hụi viên, quy định 01 tháng khui hụi 02 lần vào ngày 05 tây và ngày 20 tây. Mỗi hụi viên có thể tham gia nhiều phần hụi trong một dây hụi, mỗi lần khui hụi với số lượng 07 hụi viên hốt. Trong đó bà Nguyễn Thị H1 tham gia 05 phần hụi tương ứng với số tiền 5.000.000 đồng (năm triệu đồng) lấy tên là “Hồng Nhà N”. Kỳ khui hụi đầu tiên (ngày 05/8/2023) bà Nguyễn Thị H1 đã hốt hụi của 05 phần hụi này với tổng số tiền là 91.800.000 đồng (mỗi phần hụi hốt được số tiền 18.860.000 đồng). Chứng cứ thể hiện số tiền hụi 91.800.000 đồng ngày 05/8/2023 giao cho bà Nguyễn Thị H1 ký tên xác nhận. Nội dung số tiền ghi là chữ viết của bà Thạch Thị Kim H, còn chữ viết “Đã nhận tiền đủ” và ký tên, ghi họ tên “Nguyễn Thị H1” là của bà Nguyễn Thị H1 xác lập.

Nguyên đơn giải thích nội dung số tiền hốt hụi ngày 05/8/2023 của bà Nguyễn Thị H1 ghi tên “Hồng Rừng” là tên của bị đơn. Ngày 05/8/2023, bà Nguyễn Thị H1 kêu số tiền hụi để hốt là 820.000 đồng x 23 hụi viên = 18.860.000 đồng. Sau đó chủ hụi trừ tiền hoa hồng 500.000 đồng, còn lại 18.360.000 đồng {(18.360.000 đồng x 05 phần hụi (5.000.000 đồng)} = 91.800.000 đồng. Tổng số tiền bà Nguyễn Thị H1 phải đóng phần hụi chết của 05 phần hụi đã hốt là 115.000.000 đồng {(05 phần hụi (5.000.000 đồng)} x 23 hụi viên (trừ hụi viên chết bà Nguyễn Thị H1) = 115.000.000 đồng.

Việc tham gia và theo dõi hụi viên bằng cách bà Thạch Thị Kim H có lập 01 cuốn sổ lớn để theo dõi hoạt động của dây hụi như sau: Ghi danh sách tên của 24 hụi viên, mỗi lần hụi viên khui (hốt) hụi tháng nào thì bà Thạch Thị Kim H ghi trong sổ theo dõi hụi với ký hiệu là , ghi chữ số 2, 4, 6, 8, 10 thể hiện kỳ hụi mà hụi viên hốt hụi. Hụi viên đóng tiền hụi sống hoặc chết ghi ký hiệu là X, còn hụi viên không đóng tiền hụi chết sau khi hốt hụi thì bà Thạch Thị Kim H không ghi ký hiệu gì (bỏ khoảng trống). Hiện nay dây hụi này đã mãn hạn nhưng phía bị đơn không thực hiện nghĩa vụ của hụi viên là đóng tiền hụi chết cho chủ hụi thể hiện tại Chứng cứ 10 tờ giấy A4 có nội dung ghi tiền hụi của 24 hụi viên do nguyên đơn cung cấp cho Tòa án có nguồn gốc được photo ra từ cuốn sổ theo dõi dây hụi ngày 05/8/2023.

Khi tham gia chơi hụi với nguyên đơn thì các hụi viên có sổ ghi lại số kỳ ai là người hốt và số tiền hốt là bao nhiêu để biết tính toán lần sau bốc thăm kêu hụi. Khi hụi viên khui hụi thì bà Thạch Thị Kim H có thông báo cho người tham gia biết mỗi kỳ ai là người hốt được hụi và cũng thông báo người đã hốt hụi chưa đóng phần hụi chết trong đó có nêu tên bà Nguyễn Thị H1, đồng thời phía chủ hụi phải đóng choàng phần hụi chết cho những người được hốt hụi kỳ tiếp theo. Các hụi viên đóng tiền hụi cho chủ hụi có 02 phương thức: Đóng tiền trực tiếp hoặc chuyển tiền vào số tài khoản của bà Thạch Thị Kim H là 185901649 mở tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Á (viết tắt là A), sau đó bà Thạch Thị Kim H sẽ ghi vào sổ hụi để thuận tiện theo dõi.

Hiện nay bà Nguyễn Thị H1 không còn tham gia chơi hụi gì với nguyên đơn nữa. Tại phiên tòa bà Thạch Thị Kim H yêu cầu bị đơn bà Nguyễn Thị H1 phải thanh toán số tiền hụi chưa đóng là 115.000.000 đồng tương ứng với {(05 phần hụi (5.000.000 đồng x 23 hụi viên)}.

Ngoài ra, nguyên đơn không có tranh chấp gì khác.

- Quá trình tham gia tố tụng và tại phiên tòa, bị đơn (bà Nguyễn Thị H1) trình bày:

Hiện nay bà Nguyễn Thị H1 đăng ký hộ khẩu thường trú và đang sinh sống tại ấp C, xã M, huyện D, tỉnh Bình Dương.

Bà Nguyễn Thị H1 biết bà Thạch Thị Kim H do nguyên đơn làm chủ hụi, còn bị đơn là hụi viên. Thời gian tham gia chơi hụi từ năm 2021, năm 2022 thì bà Nguyễn Thị H1 không nhớ rõ.

Việc hai bên chơi hụi có sổ sách do chủ hụi cầm giữ, còn bà Nguyễn Thị H1 không có làm sổ sách tiền hụi gì. Dây hụi khui ngày 05/8/2023 gồm có 24 hụi viên, mỗi phần hụi chơi số tiền là 1.000.000 đồng. Một tháng khui hụi 02 lần. Bà Nguyễn Thị H1 tham gia 05 phần hụi với số tiền 5.000.000 đồng lấy tên gọi là “Hồng Rừng”. Ngày 05/8/2023, bà Nguyễn Thị H1 kêu hụi là 180.000 đồng nên được hốt phần hụi này. Do đó, bà Thạch Thị Kim H giao cho bà Nguyễn Thị H1 tổng số tiền là 91.800.000 đồng (chín mươi mốt triệu tám trăm ngàn đồng), đồng thời bà Thạch Thị Kim H có lập giấy giao nhận số tiền này đối với bị đơn. Chứng cứ ngày 05/8/2023 thể hiện số tiền 91.800.000 đồng là chữ viết của bà Thạch Thị Kim H, còn chữ viết “Đã nhận tiền đủ” và ký tên, ghi họ tên “Nguyễn Thị H1” là của bị đơn xác lập. Số tiền 91.800.000 đồng bà Nguyễn Thị H1 sử dụng vào việc sửa chữa nhà ở nghỉ “Sơn Hồng” tọa lạc tại ấp C, xã M, huyện D, tỉnh Bình Dương.

Sau khi hốt hụi thì bị đơn cho rằng đã đóng cho chủ hụi được 15 kỳ (mỗi kỳ là 5.000.000 đồng) với tổng số tiền 75.000.000 đồng bằng hình thức một phần đưa tiền trực tiếp cho bà Thạch Thị Kim H, một phần chuyển tiền vào số tài khoản cho chủ hụi nhưng hoàn toàn không có tài liệu, chứng cứ gì để chứng minh. Hiện nay dây hụi này đã mãn vào tháng 7, 8 năm 2024. Số tiền hụi còn lại bà Nguyễn Thị H1 chưa đóng cho chủ hụi là 08 kỳ với tổng số tiền là 40.000.000 đồng.

Tại phiên tòa phía bị đơn chỉ đồng ý thanh toán số tiền 40.000.000 đồng, còn lại 75.000.000 đồng không đồng ý. Hình thức thanh toán xin trả dần mỗi tháng 2.000.000 đồng cho đến khi hết số tiền trên vì hiện nay có hoàn cảnh kinh tế khó khăn không có khả năng trả 01 lần.

Ngoài ra, bị đơn không có ý kiến gì khác.

- Tại biên bản lấy lời khai ngày 02/4/2025, người làm chứng (bà Trần Thị B, bà Chung Thị M) trình bày:

Bà B, bà M hoàn toàn không có quan hệ gì với bà Thạch Thị Kim H nhưng có tham gia chơi hụi do bà Thạch Thị Kim H làm chủ hụi. Chỉ biết bà Nguyễn Thị H1 là người cùng tham gia chơi hụi với bà Thạch Thị Kim H.

- Bà B: Tham gia dây hụi 1.000.000 đồng mở ngày 05/8/2023 với 24 hụi viên, quy định 01 tháng khui hụi 02 lần vào ngày 05 tây và ngày 20 tây. Mỗi lần khui hụi với số lượng 07 hụi viên hốt. Trong đó bà B tham gia 03 phần với số tiền 3.000.000 đồng (ba triệu đồng) lấy tên là “Bích”. Sau đó bà B đã hốt hụi của 03 phần hụi này với tổng số tiền là 65.700.000 đồng (mỗi phần hụi hốt được số tiền 21.900.0000 đồng). Việc bà B khui hụi vào tháng thứ mấy thì không nhớ rõ vì thời gia đã quá lâu. Mỗi lần hụi viên khui hụi thì bà Thạch Thị Kim H ghi trong sổ theo dõi hụi với ký hiệu là , hụi viên đóng tiền hụi sống, chết ghi ký hiệu là X, còn hụi viên không đóng tiền hụi chết thì bà Thạch Thị Kim H không ghi ký hiệu gì (bỏ khoảng trống). Hiện nay dây hụi này đã mãn hạn và bà B đã đóng tiền hụi chết đầy đủ cho bà Thạch Thị Kim H.

- Bà M: Cũng giống như bà Trần Thị B trình bày thì bà M cũng tham gia chơi 10 phần hụi với tổng tiền 10.000.000 đồng, mỗi phần hụi là 1.000.000 đồng. Bà M tham gia lấy tên là “Điểm” với tổng số tiền hốt hụi 194.200.000 đồng. Mỗi lần hụi viên khui hụi thì bà Thạch Thị Kim H ghi trong sổ theo dõi hụi với ký hiệu là , hụi viên đóng tiền hụi sống, chết ghi ký hiệu là X, còn hụi viên không đóng tiền hụi chết thì bà Thạch Thị Kim H không ghi ký hiệu gì (bỏ khoảng trống). Hiện nay dây hụi này đã mãn hạn và bà M đã đóng tiền hụi chết đầy đủ cho bà Thạch Thị Kim H.

Các chứng cứ 10 tờ giấy ghi tiền hụi mà bà Thạch Thị Kim H cung cấp cho Tòa án thì có chữ ký tên “Bít” và “Điểm” là tên của bà B, bà M tham gia chơi hụi với nguyên đơn. Khi tham gia chơi hụi thì các hụi viên có sổ ghi lại số kỳ ai là người hốt và số tiền hốt là bao nhiêu để biết tính toán lần sau bốc thăm kêu hụi. Khi hụi viên khui hụi thì chủ hụi có thông báo biết mỗi kỳ ai là người hốt được hụi và cũng thông báo người đã hốt hụi chưa đóng phần hụi chết cho bà Thạch Thị Kim H, đồng thời phía chủ hụi phải đóng choàng phần hụi chết cho những người được hốt hụi kỳ tiếp theo. Quy định sau khi hốt phần hụi thì hụi viên phải đóng phần hụi chết nếu khui hụi ngày 05 tây thì hụi viên phải đóng hụi chết vào ngày 20 tây hàng tháng.

Hiện nay, các phần hụi mà các đương sự tham gia thì bà Thạch Thị Kim H đã giao và thanh toán tiền đầy đủ cho hụi viên bà B, bà M. Phía bà Thạch Thị Kim H cung cấp chứng cứ 10 tờ giấy A4 thể hiện phần hụi mà bà Nguyễn Thị Hồng C chưa gạch chéo tức là chưa đóng phần hụi chết thì chủ hụi có thông báo cho người chơi hụi biết nội dung này. Bà Thạch Thị Kim H khởi kiện yêu cầu bà Nguyễn Thị H1 phải thanh toán số tiền hụi chưa đóng là 115.000.000 đồng, các đương sự có ý kiến mỗi kỳ hụi viên hốt hụi thì bà Thạch Thị Kim H có thông báo cho các hụi viên biết là bà Nguyễn Thị H1 chưa đóng phần hụi chết này và đối chiếu sổ sách theo dõi hụi viên chưa đóng của bà Nguyễn Thị H1 là có căn cứ pháp luật.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 64/2025/DS-ST ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Tòa án nhân dân huyện D, tỉnh Bình Dương (nay là Tòa án nhân dân Khu vực 18 – Thành phố Hồ Chí Minh) đã quyết định:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Thạch Thị Kim H đối với bà Nguyễn Thị H1 về việc “Tranh chấp tiền hụi”.

Buộc bà Nguyễn Thị H1 có nghĩa vụ thanh toán cho bà Thạch Thị Kim H số tiền hụi 115.000.000 đồng (một trăm mười lăm triệu đồng).

Kể từ ngày bà Thạch Thị Kim H có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bà Nguyễn Thị H1 không thanh toán số tiền trên, thì hàng tháng bà Nguyễn Thị H1 còn phải chịu tiền lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 tương ứng với thời gian chưa thi hành án.

2. Án phí dân sự sơ thẩm:

- Bà Nguyễn Thị H1 phải nộp số tiền 5.750.000 đồng (năm triệu bảy trăm năm mươi ngàn đồng).

- Hoàn trả cho bà Thạch Thị Kim H 2.875.000 đồng (hai triệu tám trăm bảy mươi lăm ngàn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0007360 ngày 06/3/2025 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện D, tỉnh Bình Dương.

Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về quyền yêu cầu thi hành án và quyền kháng cáo của các đương sự.

Ngày 13/5/2025, bị đơn bà Nguyễn Thị H1 kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.

Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, bị đơn có đơn xin giải quyết vắng mặt. Các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm:

Về tố tụng: Những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung: Nguyên đơn và bị đơn đều thống nhất thừa nhận về việc có chơi hụi ngày 05/8/2023, về số tiền hốt hụi = 91.800.000 đồng ngày 05/8/2023, về giấy giao hụi thể hiện bị đơn đã nhận đủ số tiền này. Đây là những tình tiết, sự kiện không cần phải chứng minh theo quy định tại Điều 92 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Bị đơn cho rằng sau khi hốt hụi đã đóng cho nguyên đơn được 15 kỳ = 75.000.000 đồng bằng hình thức đưa tiền trực tiếp nhưng không cung cấp được chứng cứ chứng minh và không được nguyên đơn thừa nhận nên không có căn cứ chấp nhận. Do đó, nguyên đơn bà Thạch Thị Kim H khởi kiện yêu cầu bà Nguyễn Thị H1 trả số tiền hụi là 115.000.000 đồng được Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận là phù hợp với quy định tại Điều 471 của Bộ luật dân sự.

Bị đơn kháng cáo nhưng cũng không có chứng cứ chứng minh cho trình bày của mình nên không có cơ sở chấp nhận, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự, không chấp yêu cầu kháng cáo của bị đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Sau khi nghiên cứu tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, lời trình bày của các đương sự, ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh,

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng:

[1.1] Bị đơn bà Nguyễn Thị H1 kháng cáo trong hạn luật định, đơn kháng cáo có nội dung hình thức phù hợp với quy định của pháp luật nên đủ điều kiện để thụ lý và xét xử theo thủ tục phúc thẩm.

[1.2] Bị đơn bà Nguyễn Thị H1 có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt. Vì vậy, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định của Điều 296 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về nội dung:

Ngày 05/8/2023, bà Thạch Thị Kim H mở dây hụi 1.000.000 đồng/phần, gồm có 24 hụi viên tham gia, mỗi hụi viên có thể tham gia nhiều phần, quy định mỗi tháng khui hụi 02 lần vào ngày 05 tây và 20 tây, các hụi viên có trách nhiệm đóng hụi trực tiếp hoặc chuyển khoản cho bà Kim H. Bà Nguyễn Thị H1 có tham gia dây hụi này với 05 phần, lấy tên là “Hồng Nhà Nghỉ”, hụi này là hụi lấy lời, ai bỏ cao thì người đó được hốt hụi. Kỳ khui hụi đầu tiên (ngày 05/8/2023) bà Nguyễn Thị Hồng B1 số tiền 180.000 đồng để hốt số tiền hụi còn lại là 820.000 đồng/phần x 23 hụi viên = 18.860.000 đồng/phần, sau khi trừ tiền hoa hồng cho chủ hụi là 500.000 đồng thì số tiền còn lại bà Nguyễn Thị H1 được nhận là 18.360.000 đồng/phần. Bà Nguyễn Thị Hồng H2 hết 05 phần hụi nên được nhận số tiền là 91.800.000 đồng (18.360.000 đồng x 05 phần hụi) và đã nhận đủ số tiền này thể hiện tại Giấy giao tiền hụi ngày 05/8/2023. Quá trình tố tụng, bị đơn bà Nguyễn Thị H1 thống nhất thừa nhận bà có tham gia dây hụi với số tiền đóng, số người tham gia chơi hụi do bà Thạch Thị H làm chủ hụi và số tiền hụi thực tế bà đã nhận, xét đây là những tình tiết, sự kiện không cần phải chứng minh theo quy định tại Điều 92 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3] Xét kháng cáo của bị đơn bà Nguyễn Thị H1 nhận thấy:

Nguyên đơn bà Thạch Thị Kim H yêu cầu bị đơn bà Nguyễn Thị H1 trả số tiền nợ hụi là 115.000 đồng, chứng cứ do nguyên đơn giao nộp là Tờ giấy có ghi số tiền hụi 91.800.000 đồng ngày 05/8/2023. Nguyên đơn xác định nội dung do nguyên đơn viết, bị đơn có ký tên, ghi họ tên “Nguyễn Thị H1” và viết “Đã nhận tiền đủ”. Bị đơn thừa nhận chữ ký, chữ viết và số tiền hụi đã nhận. Bị đơn cho rằng sau khi hốt hụi đã đóng cho chủ hụi được 15 kỳ (mỗi kỳ là 5.000.000 đồng) với tổng số tiền 75.000.000 đồng bằng hình thức một phần đưa tiền trực tiếp và một phần chuyển tiền vào số tài khoản cho chủ hụi, số tiền hụi còn lại bị đơn chưa đóng cho chủ hụi là 08 kỳ với tổng số tiền là 40.000.000 đồng. Lời trình bày của bị đơn không được nguyên đơn thừa nhận.

Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn bà Thạch Thị Kim H xác định bà chỉ sử dụng duy nhất số tài khoản 185901649 mở tại Ngân hàng TMCP Á (A) - Chi nhánh C1. Căn cứ sổ phụ (sao kê chuyển tiền) của số tài khoản 5504205143580 mở tại Ngân hàng N1 - Chi nhánh huyện D, chủ tài khoản Nguyễn Thị H1 (BL 53-61) từ ngày 01/6/2024 đến ngày 31/12/2024 do Toà án cấp sơ thẩm thu thập thì không có số tài khoản 185901649, chủ tài khoản Thạch Thị Kim H như trên. Như vậy, bị đơn không xuất trình được chứng cứ chứng minh việc đã đóng cho nguyên đơn số tiền hụi là 75.000.000 đồng nên không có căn cứ để Hội đồng xét xử chấp nhận. Do đó, nguyên đơn bà Thạch Thị Kim H khởi kiện yêu cầu bà Nguyễn Thị H1 trả số tiền hụi là 115.000.000 đồng được Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận là phù hợp với quy định tại Điều 471 của Bộ luật dân sự.

[4] Từ những phân tích trên, xét thấy Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là phù hợp nên không có căn cứ để Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn.

[5] Ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát Thành phố Hồ Chí Minh là phù hợp nên có căn cứ để chấp nhận.

[6] Về án phí dân sự phúc thẩm: Người kháng cáo phải chịu án phí theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Khoản 1 Điều 148, Khoản 1 Điều 308 và Điều 313 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn bà Nguyễn Thị H1.

Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 64/2025/DS-ST ngày 29/4/2025 của Tòa án nhân dân huyện D, tỉnh Bình Dương (nay là Tòa án nhân dân Khu vực 18 – Thành phố Hồ Chí Minh).

2. Về án phí dân sự phúc thẩm: Bị đơn bà Nguyễn Thị H1 phải chịu số tiền 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng), được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền số 0002051 ngày 14/5/2025 của Chi Cục Thi hành án dân sự huyện D, tỉnh Bình Dương (nay là Phòng Thi hành án dân sự Khu vực 18 – thành phố Hồ Chí Minh).

Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

71
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp tiền hụi số 775/2025/DS-PT

Số hiệu:775/2025/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 18/07/2025
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;