TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH Đ
BẢN ÁN 58/2023/DS-PT NGÀY 24/03/2023 VỀ TRANH CHẤP THỰC HIỆN NGHĨA VỤ GIAO TÀI SẢN THEO HỢP ĐỒNG CHUYỂN NHƯỢNG QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT VÀ TÀI SẢN GẮN LIỀN VỚI ĐẤT
Ngày 24 tháng 3 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đ xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 272/2022/TLPT-DS ngày 19 tháng 12 năm 2022 về việc “Tranh chấp về thực hiện nghĩa vụ giao tài sản theo hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất” Do bản án dân sự sơ thẩm số 77/2022/DS-ST ngày 01/11/2022 của Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Đ bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 13/2023/QĐ-PT ngày 03 tháng 02 năm 2023; Quyết định hoãn phiên tòa số 38/2023/QĐ-PT ngày 27/02/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Đ giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Đoàn Quang H, sinh năm 1967; bà Hoàng Thị T, sinh năm 1972; Cư trú tại: Số nhà 34, Thôn 4, xã Hòa N, huyện L, tỉnh Đ.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: ông Nguyễn Tuấn H, sinh năm 1982. Cư trú tại: Số nhà 01, đường Nguyễn Huệ, Tổ 5, thị trấn L, huyện L, tỉnh Đ. Văn bản uỷ quyền ngày 01/3/2023. Có mặt.
2. Bị đơn: Bà Đỗ Thị T; sinh năm 1972. Địa chỉ: Số nhà 02, Thôn 4, xã H, huyện L, tỉnh Đ; nơi ở hiện nay: Số nhà 263, Thôn 1, xã N, huyện L, tỉnh Đ.
Đại diện theo uỷ quyền của bị đơn: Bà Nguyễn Thị Tuyết H4, sinh năm 1966; trú tại: Số 05 đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Phường 1, thành phố L, tỉnh Đ. Văn bản uỷ quyền ngày 13/12/2022. Có mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn: Luật sư Huỳnh Hải Đ – Văn phòng luật sư Huỳnh Hải Đ, Đoàn luật sư tỉnh Đ. Có mặt.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1 Ông Phạm Ngọc B, sinh năm 1959; bà Vũ Thị L, sinh năm 1962; địa chỉ: Thôn 4, xã N, huyện L, tỉnh Đ; nơi ở hiện nay: Thôn 1, xã Hòa Ninh, huyện L, tỉnh Đ. Ông B có mặt, bà L có đơn xin xét xử vắng mặt.
3.2 Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1973; Cư trú tại: Số nhà 11, Thôn 4, xã Hòa Ninh, huyện L, tỉnh Đ. Có mặt.
Người kháng cáo: Bị đơn bà Đỗ Thị T.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện và quá trình giải quyết vụ án ông Đoàn Quang H, bà Hoàng Thị T trình bày:
Vào năm 2018, bà Đỗ Thị T thế chấp đất để vay số tiền 700.000.000 đồng tại Ngân hàng Nông nghiệp & Phát triển nông thôn Chi nhánh N; cùng thời điểm đó bà T7 nợ vợ chồng ông H, bà T 329.000.000 đồng, nợ bà Nguyễn Thị H 850.000.000 đồng, nợ vợ chồng ông Phạm Ngọc B, bà Vũ Thị L 314.595.000 đồng, ngoài ra bà T còn nợ nhiều người khác nên mất khả năng thanh toán. Do có quan hệ thân thiết nên bà T trao đổi với vợ chồng tôi; vợ chồng ông B, bà L và bà H về việc ứng tiền trả nợ gốc, lãi thay cho bà T tại Ngân hàng, sau đó lấy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà T tại thửa 186, tờ bản đồ 46 xã Đinh Trang Hòa để chuyển nhượng ưu tiên trả hết nợ cho vợ chồng tôi, vợ chồng ông , bà L và bà H, số tiền còn lại để bà T làm vốn kinh doanh.
Thực hiện thỏa thuận, vợ chồng tôi (H6, bà T6) đã trả nợ thay cho bà T7 tại Ngân hàng 700.000.000 đồng nợ gốc và 20.000.000 đồng nợ lãi và lấy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại thửa 186, tờ bản đồ 46 xã Đinh Trang Hòa của bà T7 về. Để tránh việc các chủ nợ khác biết bà T7 bán nhà, đất sẽ kéo đến đòi nợ. Ngày 09/11/2018, bà T7 lập hợp đồng ủy quyền cho vợ chồng ông B, bà L được thay mặt bà T7 chuyển nhượng, nhận tiền chuyển nhượng …. đối với quyền sử dụng đất tại thửa 186, tờ bản đồ 46 xã Đinh Trang Hòa. Sau đó vợ chồng ông B, bà L thông báo bán nhà, đất của bà T7 nhưng người trả giá cao nhất là 2,2 tỷ đồng. Để đảm bảo thu hồi được nợ và số tiền đã ứng ra trả nợ thay cho bà T7 tại Ngân hàng; vợ chồng tôi chấp nhận mua nhà, đất của bà T7 với giá 2,5 tỷ đồng. Ngày 07/12/2018, ông B, bà L thay mặt bà T7 ký H6 đồng chuyển nhượng quyền sử dụng 123m2 đất và tài sản trên đất tại thửa 186, tờ bản đồ 46 xã Đinh Trang Hòa cho vợ chồng ông H6, bà T6, nhưng ghi giá 500.000.000 đồng để giảm tiền thuế. Sau đó ông H6, bà Thuỷ làm thủ tục đăng ký biến động đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất từ ngày 21/01/2019.
Đối với số tiền chuyển nhượng đất 2,5 tỷ đồng, vợ chồng ông H6, bà T6 trừ đi 329.000.000 đồng bà T7 nợ trước đó và 720.000.000 đồng trả nợ Ngân hàng thay cho bà T7; trả cho bà H3 850.000.000 đồng bà T7 nợ bà H3, còn lại 601.000.000 đồng giao lại cho ông B, bà L. Do đó, vợ chồng ông H6, bà Thuỷ xác định đã thanh toán xong tiền nhận chuyển nhượng nhà, đất cho bà T7.
Sau khi hoàn tất thủ tục chuyển nhượng thì bà T7 đề nghị được ở lại thêm 03 tháng để tìm chỗ ở mới. Tuy nhiên, đến tháng 02/2020 bà T7 vẫn không giao tài sản chuyển nhượng. Vì vậy ông H6, bà Thuỷ yêu cầu bà T7 giao quyền sử dụng đất 123 m2 và tài sản gắn liền với đất thuộc thửa 186, tờ bản đồ 46 xã Đinh Trang Hòa cho ông H6, bà T6.
Bị đơn bà Đỗ Thị T trình bày: Bà thừa nhận có lập hợp đồng ủy quyền cho vợ chồng ông B, bà L được thay mặt bà T7 xóa thế chấp, góp vốn, nhận đặt cọc, chuyển nhượng, nhận tiền chuyển nhượng, tặng cho…. đối với quyền sử dụng đất tại thửa 186, tờ bản đồ 46 xã Đinh Trang Hòa. Đến ngày 07/12/2018, ông B, bà L lập H6 đồng chuyển nhượng quyền sử dụng 123m2 đất và tài sản trên đất tại thửa 186, tờ bản đồ 46 xã Đinh Trang Hòa của bà T7 cho vợ chồng ông H6, bà T6 với giá 2,5 tỷ đồng là đúng. Tuy nhiên bà không đồng ý với giá chuyển nhượng 2,5 tỷ đồng vì thời điểm đó đã có người trả bà giá 2,7 tỷ đồng nhưng bà chưa đồng ý bán. Bà chỉ đồng ý giao nhà, đất cho ông H6, bà T6 khi được thanh toán với giá 2,7 tỷ đồng.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Phạm Ngọc B, bà Vũ Thị L trình bày:
Thống nhất với lời trình bày của vợ chồng ông H6, bà T6 là đúng sự thật. Do thời điểm cuối năm 2018 chỉ có người trả giá nhà, đất của bà T7 cao nhất là 2,2 tỷ đồng. Vì vậy, sau khi trao đổi và bà T7 thống nhất chuyển nhượng nhà, đất với giá 2,5 tỷ đồng, vợ chồng ông B, bà L đã động viên vợ chồng ông H6, bà T6 nhận chuyển nhượng nhà, đất của bà T7 với giá 2,5 tỷ đồng, sau đó ông B, bà L thay mặt bà T7 thực hiện thủ tục chuyển nhượng đất như vợ chồng ông H6, bà T6 đã trình bày. Trong số tiền chuyển nhượng đất 2,5 tỷ đồng, vợ chồng ông H6, bà T6 trừ đi 720.000.000 đồng đã ứng ra trả nợ cho bà T7 tại Ngân hàng và 329.000.000 đồng bà T7 nợ trước đó; trả khoản 850.000.000 đồng bà T7 nợ bà Nguyễn Thị H3; còn lại 601.000.000 đồng vợ chồng ông H6, bà T6 đã giao cho vợ chồng ông B, bà L, trong đó vợ chồng ông B, bà L trừ 314.595.000 đồng bà T7 nợ, còn lại 286.405.000 đồng vợ chồng ông B, bà L nhiều lần gọi bà T7 giải quyết nhưng bà T7 không đến.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị H3 trình bày:
Thống nhất với trình bày của vợ chồng ông H6, bà Thuỷ và lời khai của vợ chồng ông B, bà L là đúng sự thật. Theo thỏa thuận giữa chúng tôi về việc bà T7 bán nhà, đất để trả nợ, bà H3 đã được ông B trả 850.000.000 đồng mà bà T7 nợ bà H3.
Tòa án tiến hành hòa giải nhưng không thành.
Tại bản án Dân sự sơ thẩm số 77/2022/DS-ST ngày 01 tháng 11 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện L tuyên xử:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Đoàn Quang H và bà Hoàng Thị T2 “Về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liên với đất”.
Buộc bà Đỗ Thị T giao cho ông Đoàn Quang H và bà Hoàng Thị T2 toàn bộ diện tích đất thuộc thửa 186, tờ bản đồ 46 xã Đinh Trang Hòa, huyện L, tỉnh Đ và toàn bộ công trình xây dựng hiện có trên đất cùng phần sân bê tông diện tích 44,1 m2 được che mái tôn thuộc lộ giới Quốc lộ 20 (theo họa đồ ngày 21/01/2021 kèm theo bản án).
Ông Đoàn Quang H và bà Hoàng Thị T2 có trách nhiệm tháo dỡ phần mái tôn trên đất lộ giới Quốc lộ 20 khi có yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về án phí, quyền kháng cáo và trách nhiệm thi hành án của các đương sự theo quy định của pháp luật.
Ngày 23/9/2022 bị đơn bà Nguyễn Thị T kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa, đại diện theo uỷ quyền của bị đơn bà Nguyễn Thị Tuyết H4 vẫn giữ nguyên kháng cáo.
Nguyên đơn ông Đoàn Quang H, bà Hoàng Thị Thuỷ; người liên quan vợ chồng ông B, bà L, bà H3 không đồng ý với kháng cáo của bị đơn và đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đ phát biểu:
Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, các đương sự cũng đã chấp hành đầy đủ giấy báo của Tòa án, thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình tại phiên tòa phúc thẩm.
Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử xác định lại quan hệ tranh chấp kiện đòi tài sản mới có căn cứ. Đây là vụ án không có giá ngạch nên đề nghị sửa lại phần án phí mà bị đơn phải chịu. Căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự, sửa Bản án dân sự sơ thẩm theo hướng đã nhận định trên.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về tố tụng:
1.1] Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Phạm Ngọc B, bà Vũ Thị L có đơn xin xét xử vắng mặt, bà Nguyễn Thị H3 đã được Toà án triệu tập hợp lệ mà vắng mặt. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 3 Điều 296 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 để tiến hành xét xử vụ án theo thủ tục chung.
[1.2] Về quan hệ tranh chấp: Xuất phát từ việc nguyên đơn ông Nguyễn Quang H, bà Hoàng Thị Thuỷ có nhận chuyển nhượng của bà Đỗ Thị T diện tích 123 m2 và tài sản trên đất thuộc thửa 186, tờ bản đồ 46 tại xã Đinh Trang Hòa với giá chuyển nhượng 2.500.000.000đ và đồng ý cho bà T7 ở lại thêm 03 tháng để tìm chỗ ở mới. Tuy nhiên đến nay bà T7 không thực hiện giao nhà đất như đã thoả thuận nên ông H6, bà Thuỷ khởi kiện yêu cầu bà T7 thực hiện nghĩa vụ giao đất và tài sản gắn liền với đất nêu trên cho vợ chồng ông bà. Bị đơn bà Đỗ Thị T không đồng giao nhà đất nên các bên phát sinh tranh chấp. Tòa án cấp sơ thẩm xác định quan hệ tranh chấp là “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất” là không đúng; cần xác định lại quan hệ tranh chấp: “Tranh chấp về thực hiện nghĩa vụ giao tài sản theo hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất” mới có căn cứ, đúng pháp luật.
[2] Xét kháng cáo của bị đơn bà Đỗ Thị T thấy rằng:
[2.1] Ngày 09/11/2018, giữa bà Đỗ Thị T với ông Phạm Ngọc B, bà Vũ Thị L có lập “H6 đồng ủy quyền”, theo đó bà Đỗ Thị T ủy quyền cho ông Phạm Ngọc B, bà Vũ Thị L thay mặt và nhân danh bà T7 “quản lý, sử dụng, đăng ký biến động, chỉnh lý thông tin trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, cấp đổi giấy chứng nhận, cho thuê, thế chấp, thế chấp để bảo đảm nghĩa vụ cho bên thứ ba, xóa thế chấp, góp vốn, nhận đặt cọc, chuyển nhượng, nhận tiền chuyển nhượng, tặng cho….” đối với quyền sử dụng diện tích 123m2 đất ở nông thôn tại thửa 186, tờ bản đồ 46, xã Đinh Trang Hòa, huyện L, tỉnh Đ theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H 078646 do Ủy ban nhân dân huyện L cấp ngày 31/10/1996. Ủy quyền không có thù lao và có thời hạn 05 năm kể từ ngày ký.
[2.2] Ngày 07/12/2018, giữa ông Phạm Ngọc B, bà Vũ Thị L là đại diện theo ủy quyền của bà Đỗ Thị T lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông Đoàn Quang H, bà Hoàng Thị T2 quyền sử dụng đất đối với diện tích 123m2 tại thửa 186, tờ bản đồ 46 xã Đinh Trang Hòa, huyện L, tỉnh Đ theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H 078646 do Ủy ban nhân dân huyện L cấp ngày 31/10/1996; giá chuyển nhượng theo hợp đồng là 500.000.000 đồng; bên chuyển nhượng có nghĩa vụ giao thửa đất chuyển nhượng cho bên nhận chuyển nhượng ngay sau khi ký hợp đồng. H6 đồng được công chứng tại Văn phòng công chứng Lê Đình Lợi.
Như vậy, việc ông Phạm Ngọc B và bà Vũ Thị L chuyển nhượng thửa đất 186, tờ bản đồ 46 xã Đinh Trang Hòa, huyện L, tỉnh Đ cho ông Đoàn Quang H, bà Hoàng Thị Thuỷ nằm trong phạm vi uỷ quyền của bà Đỗ Thị T và đúng quy định pháp luật về hình thức và nội dung của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất.
[2.3] Theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H 078646 do Ủy ban nhân dân huyện L cấp ngày 31/10/1996 cho ông Nguyễn Hữu T9 có nội dung: Ông Nguyễn Hữu T9 được quyền sử dụng 400m2 đất ở và 210 m2 đất nông nghiệp thuộc thửa 135, tờ bản đồ 46 tại xã Đinh Trang Hòa, huyện L, tỉnh Đ, tại phần “Những thay đổi sau khi cấp giấy chứng nhận” có nội dung: Ngày 10/5/2008 điều chỉnh giảm 375m2 đất thuộc hành lang lộ giới, diện tích sau khi điều chỉnh là 235m2 đất ở nông thôn được tách thành 02 thửa gồm: Thửa 185 có diện tích 112m2 đất ở nông thôn; thửa 186 có diện tích 123m2 đất ở nông thôn; ngày 28/5/2008 chuyển nhượng cho Trần Văn Duyên 112m2 đất ở nông thôn tại thửa 185; diện tích còn lại 123m2 thuộc thửa 186, tờ bản đồ 46 xã Đinh Trang Hòa chuyển thành tài sản riêng của bà Đỗ Thị T từ ngày 31/10/2018; đến ngày 21/01/2019 chuyển nhượng cho ông Đoàn Quang H, bà Hoàng Thị T2.
[2.4] Qua xem xét thẩm định tại chỗ, hiện nay bà T7 đang quản lý sử dụng diện tích 200,7m2 đất gồm: 126,2m2 đất ở thuộc thửa 186, tờ bản đồ 46 xã Đinh Trang Hòa đã được cấp nhật sang tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông H6, bà T6; 06m2 đất trống và 29,4 m2 thuộc thửa 186 chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; 44,1m2 thuộc đất hành lang lộ giới Quốc lộ 20; trên đất có một căn nhà xây gạch, mái đúc bê tông 01 tầng trệt và một tầng hầm có diện tích 150,6 m2; trước nhà có sân bê tông diện tích 44,1 m2 thuộc đất hành lang lộ giới Quốc lộ 20 được che mái tôn. Tổng trị giá tài sản tại thời điểm thẩm định giá là 3.710.071.000 đồng.
Căn cứ các tài liệu đã thu thập nêu trên, có cơ sở xác định bà T7 là chủ sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất thuộc thửa 186, tờ bản đồ 46 xã Đinh Trang Hòa. Ngày 09/11/2018, bà T7 lập hợp đồng ủy quyền hợp pháp cho vợ chồng ông B, bà L thay mặt bà T7 thực hiện các quyền của người sử dụng đất, bao gồm quyền “chuyển nhượng đất, nhận tiền chuyển nhượng đất”. Trên cơ sở ủy quyền của bà T7; ông B và bà L đã ký hợp đồng chuyển nhượng cho ông H6 và bà T6 quyền sử dụng đất tại thửa 186, tờ bản đồ 46 xã Đinh Trang Hòa, được công chứng ngày 07/12/2018 theo quy định của pháp luật, sau đó ông H6 và bà T6 đã làm thủ tục đăng ký theo quy định và đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 21/01/2019.
Xét thấy, H6 đồng phù hợp với quy định tại Điều 170 Luật đất đai năm 2013, các Điều 500, 501, 502, 503 của Bộ luật dân sự năm 2015 nên có hiệu lực pháp luật, bên chuyển nhượng có nghĩa vụ giao tài sản chuyển nhượng cho bên nhận chuyển nhượng như đã thỏa thuận trong hợp đồng. Do đó, ông H6, bà T6 yêu cầu bà T7 giao cho tài sản chuyển nhượng theo hiện trạng là 126,2 m2 đất ở thuộc một phần thửa 135 (nay là thửa 186), tờ bản đồ 46 xã Đinh Trang Hòa cùng tài sản gắn liền với đất là có cơ sở.
[3] Quá trình giải quyết vụ án, bà Đỗ Thị T có đơn khởi kiện yêu cầu ông B, bà L thanh toán số tiền 2,5 tỷ tiền chuyển nhượng tài sản nhưng không nộp tạm ứng án phí nên cấp sơ thẩm đã trả đơn khởi kiện và không giải quyết là đúng quy định.
Theo lời khai của các đương sự thì một phần trong số tiền chuyển nhượng tài sản 2,5 tỷ đồng được trừ vào các khoản nợ của bà T7. Trường hợp các đương sự không tự giải quyết được với nhau và có tranh chấp về giá chuyển nhượng, việc thanh toán tiền chuyển nhượng thì có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết bằng vụ án khác theo thủ tục chung.
[4] Từ những phân tích trên, xét thấy kháng cáo của bị đơn bà Đỗ Thị T là không có cơ sở chấp nhận.
[5] Về chi phí tố tụng: Chi phí xem xét thẩm định tại chỗ, đo vẽ và thẩm định giá là 19.879.000 đồng nguyên đơn đã nộp và quyết toán xong. Tại phiên tòa nguyên đơn tự nguyện chịu toàn bộ chi phí tố tụng nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết vấn đế này.
[6] Về án phí:
Do kháng cáo không được chấp nhận nên bà Đỗ Thị T phải chịu 300.000đ án phí dân sự phúc thẩm.
Đây là vụ án thực hiện nghĩa vụ giao tài sản không có giá ngạch, cấp sơ thẩm buộc bị đơn bà T7 nộp 82.000.000đ án phí dân sự sơ thẩm là không có căn cứ, cần sửa án, buộc bà Đỗ Thị T phải chịu 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự.
Căn cứ vào Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn bà Đỗ Thị T, sửa Bản án dân sự sơ thẩm số 77/2022/DS-ST ngày 01/11/2022 của Tòa án nhân dân huyện L.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Đoàn Quang H và bà Hoàng Thị T2 về việc “Tranh chấp về thực hiện nghĩa vụ giao tài sản theo hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất” với bị đơn bà Đỗ Thị T.
Buộc bà Đỗ Thị T giao cho ông Đoàn Quang H và bà Hoàng Thị T2 toàn bộ diện tích đất thuộc thửa 186, tờ bản đồ 46 xã Đinh Trang Hòa, huyện L, tỉnh Đ và toàn bộ công trình xây dựng hiện có trên đất cùng phần sân bê tông diện tích 44,1m2 thuộc lộ giới Quốc lộ 20 (kèm theo họa đồ ngày 21/01/2021).
Ông Đoàn Quang H và bà Hoàng Thị T2 được sử dụng phần diện tích 44,1m2 thuộc hành lang lộ giới thuộc một phần thửa 186, tờ bản đồ tờ bản đồ 46 xã Đinh Trang Hòa, huyện L, tỉnh Đ nhưng không được gây cản trở an toàn giao thông, phù hợp với quy định của pháp luật về đất đai, đồng thời phải chấp hành việc xử lý hoặc thu hồi khi có quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
2. Về án phí:
Bà Đỗ Thị T phải chịu 300.000đ án phí dân sự phúc thẩm và 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền 300.000đ đã tạm nộp theo biên lại số 0006977 ngày 30/11/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện L. Bà Đỗ Thị T còn phải nộp số tiền 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) còn thiếu.
Hoàn trả cho ông Đoàn Quang H và bà Hoàng Thị T2 số tiền 41.000.000đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số AA/2017/0001721 ngày 14 tháng 5 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện L.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7,7a,7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tranh chấp thực hiện nghĩa vụ giao tài sản theo hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số 58/2023/DS-PT
Số hiệu: | 58/2023/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Đồng Tháp |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 24/03/2023 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về