Bản án về tranh chấp thừa kế tài sản, yêu cầu tuyên bố di chúc vô hiệu số 327/2024/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 327/2024/DS-PT NGÀY 25/06/2024 VỀ TRANH CHẤP THỪA KẾ TÀI SẢN, YÊU CẦU TUYÊN BỐ DI CHÚC VÔ HIỆU

Trong các ngày 18 và 25 tháng 6 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 556/2023/TLPT-DS ngày 27 tháng 11 năm 2023 về việc “tranh chấp thừa kế tài sản, yêu cầu tuyên bố di chúc vô hiệu”.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số 109/2023/DS-ST ngày 22/9/2023 của Tòa án nhân dân huyện Dầu Tiếng bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 27/2024/QĐXXPT-DS ngày 15 tháng 1 năm 2024, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Kim P, sinh năm 1971; địa chỉ: tổ B, khu phố T, phường T, thành phố Đ, tỉnh Bình Phước; có mặt Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn: Ông Phạm Văn T - Luật sư thuộc Đoàn Luật sư Thành phố H; có mặt

- Bị đơn: Ông Nguyễn Thanh P1, sinh năm 1973; địa chỉ: ấp C, xã T, huyện D, tỉnh Bình Dương; có mặt Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn: Luật sư Nguyễn Thị Mộng T1 thuộc Đoàn Luật sư Thành phố H; có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Nguyễn Thị Ánh T2, sinh năm 1957; địa chỉ: ấp C, xã T, huyện D, tỉnh Bình Dương.

2. Ông Nguyễn Hoàng T3, sinh năm 1960; địa chỉ: ấp C, xã T, huyện D, tỉnh Bình Dương.

3. Bà Nguyễn Thị Huyền D, sinh năm 1963; địa chỉ: ấp L, xã T, huyện D, tỉnh Bình Dương.

4. Bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1964; địa chỉ: ấp B, xã T, huyện D, tỉnh Bình Dương.

5. Ông Nguyễn Thanh D1, sinh năm 1967; địa chỉ: ấp C, xã T, huyện D, tỉnh Bình Dương.

6. Bà Nguyễn Thị B, sinh năm 1974; địa chỉ: ấp C, xã T, huyện D, tỉnh Bình Dương.

7. Bà Nguyễn Hoa T4, sinh năm 1995; địa chỉ: ấp C, xã T, huyện D, tỉnh Bình Dương.

8. Bà Nguyễn Nhã T5, sinh năm 2001; địa chỉ: ấp C, xã T, huyện D, tỉnh Bình Dương.

9. Bà Trần Thị Gái N1, sinh năm 1976; địa chỉ: ấp X, xã T, huyện D, tỉnh Bình Dương.

10. Ủy ban nhân dân xã T, huyện D, tỉnh Bình Dương; địa chỉ: xã T, huyện D, tỉnh Bình Dương.

- Người kháng cáo: bị đơn Nguyễn Thanh P1.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Tại đơn khởi kiện ngày 07/10/2021, khởi kiện bổ sung, quá trình tố tụng và tại phiên tòa nguyên đơn bà P trình bày: Cha bà P là ông Nguyễn Văn S, sinh năm 1939 (chết ngày 01/6/2001) và mẹ bà P là bà Lê Thị S1, sinh năm 1939 (chết ngày 01/7/2019). Ông nội là Nguyễn Văn T6, bà nội là Nguyễn Thị C. Bà ngoại là Đặng Thị T7, ông ngoại là Lê Văn M (ông bà nội ngoại đã chết từ rất lâu rồi nên không nhớ năm chết). Cha mẹ bà P có với nhau 07 người con gồm: Nguyễn Thị Ánh T2, Nguyễn Hoàng T3, Nguyễn Thị Huyền D, Nguyễn Thị N, Nguyễn Thanh D1, bà là Nguyễn Thị Kim P và ông Nguyễn Thanh P1. Ngoài ra cha mẹ bà P không có người con riêng, con nuôi nào khác.

Trong quá trình chung sống cha mẹ bà P có tạo dựng được 01 phần đất có diện tích khoảng 26.994m2 tọa lạc tại xã T, huyện D, tỉnh Bình Dương được Ủy ban nhân dân huyện D cấp vào ngày 06/11/2003 cho hộ bà Lê Thị S1. Do cha bà P chết vào năm 2001 nên tất cả các anh chị em trong nhà đều đồng ý để cho mẹ bà P là Lê Thị S1 được toàn quyền sở hữu phần tài sản là phần đất diện tích khoảng 26.994m2 tọa lạc tại xã T, huyện D, tỉnh Bình Dương nêu trên. Bà S1 đã được Ủy ban nhân dân huyện D cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào số 02285 QSDĐ/QĐ-UB vào ngày 06/11/2003. Trong quá trình sử dụng đất thì mẹ bà P đã sang nhượng và tặng cho hết 01 phần thửa đất, chỉ còn lại diện tích khoảng 10.438m2 thuộc 01 phần thửa đất số 126, tờ bản đồ số 38 (có diện tích theo đo đạc thực tế là 403,6m2) và 01 phần thửa đất số 297, 302, 357, 359, 51, 358, 374, 373, 301, 300, 298, 360, 444, 299, 362, 361, 368, 372, 371, 369, 370, 443 cùng tờ bản đồ số 42 (có diện tích theo đo đạc thực tế là 7.299m2).

Vào năm 2019 bà S1 chết thì không có lập di chúc đối với phần di sản nói trên. Sau khi bà S1 chết thì ông Nguyễn Thanh P1 đã tư ý giữ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nêu trên và không phân chia phần di sản mà bà S1 để lại cho các anh chị em ruột trong nhà. Xét thấy việc làm của ông P1 ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của anh em trong gia đình nên bà P yêu cầu Tòa án giải quyết phân chia khối di sản thừa kế của bà Lê Thị S1 theo quy định pháp luật. Phần di sản gồm các thửa đất sau: Các thửa đất số 297, 302, 357, 359, 51, 358, 374, 373, 301, 300, 298, 360, 444, 299, 362, 361, 368, 372, 371, 369, 370, 443 cùng tờ bản đồ số 42 (có diện tích theo đo đạc thực tế là 7.299m2) và thửa đất số 126, tờ bản đồ số 38 (có diện tích theo đo đạc thực tế là 403,6m2).Theo đó bà P yêu cầu chia 07 phần bằng nhau. Theo đó bà P yêu cầu chia giá trị bằng tiền vì các thửa đất nhỏ và cũng không đủ diện tích để tách thửa.

Trong quá trình giải quyết vụ án thì ông P1 cho rằng bà S1 có để lại di chúc là để lại toàn bộ phần tài sản của cho ông P1. Tuy nhiên, các anh chị em trong nhà yêu cầu ông P1 xuất trình bản di chúc của bà S1 thì ông P1 không thực hiện. Tại phiên tòa sơ thẩm lần 1 thì ông P1 mới xuất trình bản di chúc, tuy nhiên, di chúc do bà S1 để lại là không hợp pháp vì trước khi chết, bà S1 không nói cho các con trong gia đình biết là có để lại tài sản cho ông P1, bản di chúc được lập không có người làm chứng, bản di chúc do Ủy ban nhân dân xã chứng thực nhưng không có đóng dấu giáp lai, phần chứng thực của Ủy ban nhân dân xã T là trang số số 02 nhưng phần nội dung của di chúc do bà S1 lập không có số trang. Do đó, bà P1 không biết nội dung của di chúc do bà S1 lập, hay do người khác lập không và không biết nội dung của di chúc vào ngày 30/10/2015 có phải là do bà S1 để lại hay không và nội dung của bản di chúc có đúng hay không. Do đó, bà P yêu cầu Tòa án tuyên bản di chúc lập ngày 30/10/2015 do Ủy ban nhân dân xã T chứng thực là vô hiệu và yêu cầu Tòa án phân chia di sản của bà S1 theo quy định pháp luật.

- Tại biên bản lấy lời khai ngày 26/10/2021, quá trình tố tụng và tại phiên tòa bị đơn ông P1 trình bày: Ông P1 không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn vì 02 thửa đất mà nguyên đơn khởi kiện thì mẹ ông P1 là bà Lê Thị S1 đã lập di chúc để lại cho ông P1. Ngoài ra ông P1 không có ý kiến trình bày gì khác. Tại phiên tòa ngày 12/4/2023 thì ông P1 đã nộp cho Hội đồng xét xử 01 bản di chúc vào ngày 30/10/2015 và ông P1 đề nghị Tòa án không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà P.

Tại đơn yêu cầu độc lập ngày 30/12/2022, quá trình tố tụng và tại phiên tòa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà N trình bày: Thống nhất với yêu cầu khởi kiện và ý kiến của nguyên đơn bà P, đề nghị Tòa án giải quyết phân chia di sản thừa kế của bà S1 cho các đồng thừa kế đối với phần di sản gồm: Các thửa đất số 297, 302, 357, 359, 51, 358, 374, 373, 301, 300, 298, 360, 444, 299, 362, 361, 368, 372, 371, 369, 370, 443 cùng tờ bản đồ số 42 (có diện tích theo đo đạc thực tế là 7.299m2) và thửa đất số 126, tờ bản đồ số 38 (có diện tích theo đo đạc thực tế là 403,6m2). Theo đó bà N yêu cầu chia 07 phần bằng nhau. Theo đó bà N yêu cầu chia bằng giá trị bằng tiền vì các thửa đất nhỏ và cũng không đủ diện tích để tách thửa.

- Tại Biên bản lấy lời khai ngày 26/10/2021, quá trình tố tụng và tại phiên tòa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông D1 trình bày: Thống nhất ý kiến trình bày của bị đơn là ông P1, không bổ sung gì thêm.

- Trong quá trình tố tụng và tại phiên tòa những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà T2, ông T3, bà D cùng thống nhất trình bày: Thống nhất ý kiến trình bày và yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà P, không bổ sung gì thêm.

Trong quá trình tố tụng và tại phiên tòa những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà N1, bà T4, bà T5: Thống nhất ý kiến trình bày của bị đơn ông P1, không bổ sung gì thêm.

- Tại biên bản lấy lời khai ngày 18/10/2022, trong quá trình tố tụng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà B trình bày: Bà B là vợ của ông P1 nhưng đã ly hôn theo quyết định của Tòa án. Phần đất hiện đang tranh chấp là của bà Lê Thị S1. Tại thời điểm cấp đất thì bà B, bà T5, bà T4 (bà T5, bà T4 là con ruột của ông P1) có tên trong hộ khẩu nhưng không ai có công sức đóng góp gì đối phần tài sản này nhưng khi Tòa án giải quyết vụ án nêu trên thì đề nghị Tòa án xem xét quyền lợi cho con của ông P1 là bà T4, bà T5.

- Tại Công văn số 157/UBND-TP của Ủy ban nhân dân xã T, huyện D có ý kiến: Về việc chứng thực bản “di chúc” có đúng trình tự thủ tục hay không thì Ủy ban nhân dân xã T đề nghị căn cứ vào kết quả thẩm tra, xác minh thực tế và chứng cứ đã cung cấp để xử lý theo quy định.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 109/2023/DS-ST ngày 22/9/2023 của TAND huyện Dầu Tiếng đã quyết định:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Kim P đối với bị đơn ông Nguyễn Thanh P1 về việc “tranh chấp về thừa kế tài sản, yêu cầu tuyên bố di chúc vô hiệu”.

2. Chấp nhận yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị N đối với bị đơn ông Nguyễn Thanh P1 về việc “tranh chấp về thừa kế tài sản”.

- Tuyên bố bản “di chúc” do bà Lê Thị S1 lập ngày 30/10/2015 và được Ủy ban nhân dân xã T, huyện D chứng thực ngày 30/10/2015 là vô hiệu.

- Chia di sản thừa kế của bà Lê Thị S1 (chết) để lại là phần đất có diện tích 7.213,4m² thuộc các thửa đất số 297, 302, 357, 359, 51, 358, 374, 373, 301, 300, 298, 360, 444, 299, 362, 361, 368, 372, 371, 369, 370, 443 cùng tờ bản đồ số 42, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số W 995329 và phần đất có diện tích 403,6m² thuộc thửa đất số 126, tờ bản đồ số 38, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số W 995329, cụ thể như sau:

Giao cho ông Nguyễn Thanh P1 được quyền quản lý, sử dụng 02 phần đất: + Phần đất có diện tích 7.213,4m² thuộc các thửa đất số 297, 302, 357, 359, 51, 358, 374, 373, 301, 300, 298, 360, 444, 299, 362, 361, 368, 372, 371, 369, 370, 443 cùng tờ bản đồ số 42, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số W 995329 do Ủy ban nhân dân huyện D cấp ngày 06/11/2003. Phần đất tọa lạc tại ấp C, xã T, huyện D, tỉnh Bình Dương. Phần đất có từ cận: Phía Bắc giáp đường ĐT 744 nhựa; Phía Nam giáp thửa đất số 1456, 1480; Phía Đông giáp thửa đất số 363, 445; Phía Tây giáp thửa đất số 1311.

+ Phần đất có diện tích 403,6m² thuộc thửa đất số 126, tờ bản đồ số 38, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số W 995329 do Ủy ban nhân dân huyện D cấp ngày 06/11/2003. Phần đất tọa lạc tại ấp C, xã T, huyện D, tỉnh Bình Dương. Phần đất có từ cận: Phía Bắc giáp tờ bản đồ số 37; Phía Nam giáp đường nhựa ĐT 744; Phía Đông giáp thửa đất số 97; Phía Tây giáp thửa đất số 632.

(Có sơ đồ bán vẽ kèm theo).

- Buộc ông Nguyễn Thanh P1 có nghĩa vụ thanh toán giá trị kỷ phần cho các 06 đồng thừa kế của bà Lê Thị S1 là: Bà Nguyễn Thị Ánh T2, ông Nguyễn Hoàng T3, bà Nguyễn Thị Huyền D, bà Nguyễn Thị N, ông Nguyễn Thanh D1 và bà Nguyễn Thị Kim P mỗi đồng thừa kế với số tiền là số tiền 2.978.437.543 đồng (hai tỷ chín trăm bảy mươi tám triệu bốn trăm ba mươi bảy ngàn năm trăm bốn mươi ba đồng) Kể từ ngày Bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

- Ông Nguyễn Thanh P1 có quyền và nghĩa vụ tự liên hệ cơ quan có thẩm quyền để thực hiện thủ tục đăng ký cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định luật đất đai.

3. Về chi phí tố tụng xem xét, thẩm định đo đạc và định giá tài sản: Buộc các ông bà Nguyễn Thị Ánh T2, ông Nguyễn Hoàng T3, bà Nguyễn Thị Huyền D, bà Nguyễn Thị N, ông Nguyễn Thanh D1, ông Nguyễn Thanh P1 mỗi người phải nộp số tiền là 2.128.392 đồng (hai triệu một trăm hai mươi tám ngàn ba trăm chín mươi hai ngàn đồng) để trả lại cho nguyên đơn bà Nguyễn Thị Kim P.

Sau khi tuyên bản án sơ thẩm đến ngày 29/9/2023 bị đơn ông Nguyễn Thanh P1 kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, đề nghị xử bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Tại phiên toà phúc thẩm: nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, bị giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, các đương sự thoả thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn trình bày: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu chia thừa kế theo quy định của pháp luật đối với diện tích đo đạc thực tế 403,6m2 thuộc thửa đất 126 tờ bản đồ số 38 trên đất có 1 căn nhà cấp 4 và phần đất có diện tích 7.213,4m2 (gồm 17 thửa) tờ bản đồ số 42 trên đất có trồng khoảng 300 cây cao su đất tọa lạc tại ấp C, xã T, Huyện D chia thành 7 phần bằng nhau cho 7 người con của cụ S1 Nguyên đơn yêu cầu chia thừa kế đối với diện tích 403,6m2 trên đất có 1 căn nhà cấp 4 nguyên đơn yêu cầu được chia bằng giá trị theo kết quả định giá Trong quá trình giải quyết vụ án bị đơn cung cấp 1 bản di chúc do cụ Lê Thị S1 lập ngày 30/12/2015 thì nguyên đơn không đồng ý và yêu cầu Tòa án xem xét tuyên di chúc này vô hiệu do di chúc không hợp pháp lí do có chữ ký của cụ S1 nhưng phần chứng thực của Ủy ban nhân dân xã T thì trang 1 có chữ ký của cụ S1 mà không có dấu vân tay của cụ S1 là không phù hợp. Di chúc không đóng dấu giáp lai cụ S1 là người không biết chữ, bản di chúc được đánh máy thì phải có 2 người làm chứng ký vào di chúc nhưng bản di chúc này lại không có. Từ những trình bày trên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn tuyên bố di chúc vô hiệu, chia thừa kế tài sản của cụ S1 để lại cho 07 người con Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn trình bày: Căn cứ vào hồ sơ vụ án quá trình tố tụng tại cấp sơ thẩm bị đơn đã cung cấp di chúc của cụ Lê Thị S1 lập ngày 30/10/2015 được Ủy ban nhân dân xã T chứng thực. Tuy nhiên Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn tuyên di chúc vô hiệu và chia thừa kế tài sản của cụ S1 cho 7 người con. Bị đơn không đồng ý kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xem xét xử không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và yêu cầu độc lập của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là bà N bởi những lý do như sau: tại cấp phúc thẩm bị đơn ông P1 đã thu thập tài liệu di chúc của cụ Lê Thị S1 được Ủy ban nhân dân xã T chứng thực ngày 30/10/2015 thì hiện nay Ủy ban nhân dân xã đang lưu giữ bản chính di chúc ngày 30/10/2015 của cụ S1 Ngoài ra tại biên bản xác minh ngày 24/04/2024 của Tòa án tỉnh Bình Dương thì Ủy ban nhân dân xã cung cấp thông tin như sau: Hiện nay Ủy ban nhân dân xã T đang lưu giữ bản chính di chúc của cụ Lê Thị S1 lập ngày 30/10/2015 đã được chứng thực về nội dung di chúc của bị đơn ông P1 cung cấp tại Tòa án cấp sơ thẩm và nội dung di chúc được lưu giữ tại Ủy ban nhân dân xã là hoàn toàn giống nhau. Do đó, có cơ sở xác định nội dung di chúc của cụ Lê Thị S1 lập do bị đơn cung cấp có chứng thực của Ủy ban nhân dân xã nội dung của bản di chúc mà cụ S1 đã được Ủy ban nhân dân xã C và lưu giữ là cùng 1 nội dung và hoàn toàn có thật Tòa án cấp sơ thẩm đã nhận định bản di chúc không đóng giáp lai, không có người làm chứng theo quy định tại Điều 634 Bộ luật Dân sự 2015 là không phù hợp, đúng với quy định pháp luật Từ những phân tích và nhận định trên cho thấy di chúc của cụ S1 lập ngày 30/10/2015 của Ủy ban nhân dân xã C là có thật, phù hợp với ý chí nguyện vọng của cụ S1 di chúc toàn bộ tài sản (đất) của mình cho con là ông Nguyễn Thanh P1 sau khi bà mất. Ngoài ra trong vụ án này đối với nguyên đơn và các người con khác của cụ S1 (trừ ông P1) sinh sống với cụ S1, khi sinh thời lúc cụ S1 còn sống cũng đã tặng tài sản là quyền sử dụng đất cho các con. Còn ông P1 thì chưa được cụ tặng cho riêng phần đất nào cả nên việc cụ S1 lập di chúc cho ông P1 là phù hợp và công bằng. Do đó việc kháng cáo cụ bị đơn ông P1 có cơ sở chấp nhận đề nghị Hội đồng xét xử bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và người có yêu cầu độc lập, chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương phát biểu ý kiến:

Về tố tụng: Những người tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự tại Tòa án cấp phúc thẩm.

Về nội dung: Các bên đương sự đều thống nhất trình bày về quan hệ huyết thống, về nguồn gốc đất là di sản của cụ Lê Thị S1. Đây là tình tiết sự kiện không phải chứng minh theo quy định tại Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Theo Biên bản xác minh ngày 24/3/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương và ý kiến của Ủy ban nhân dân xã T, huyện D (bút lục 224) thể hiện: Ngày 30/10/2015, Ủy ban nhân dân xã T, huyện D có thực hiện việc chứng thực di chúc cho cụ S1, có lưu giữ 01 bản chính tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện D. Nhận thấy bản di chúc bị đơn cung cấp cho Tòa án giống bản di chúc được lưu giữ tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện D; kèm theo hồ sơ là giấy khám sức khỏe của cụ Lê Thị S1 (bút lục 204). Do đó, có cơ sở xác định di chúc được lập ngày 30/10/2015 thể hiện đúng ý chí của cụ Lê Thị S1. Việc lập di chúc có những sai sót không đúng quy định của pháp luật về di chúc (không đóng dấu giáp lai) là do lỗi của cán bộ thực hiện công tác chứng thực nên không thể căn cứ vào yếu tố lỗi này để xác định di chúc vô hiệu. Tòa án cấp sơ thẩm nhận định di chúc vô hiệu để chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là chưa phù hợp nên kháng cáo của bị đơn là có cơ sở.

Từ những phân tích trên, nhận thấy: Tòa án cấp sơ thẩm chia di sản thừa kế là chưa phù hợp quy định pháp luật nên yêu cầu kháng cáo của bị đơn ông Nguyễn Thanh P1 là có cơ sở. Do đó, tôi đề nghị Hội đồng xét xử Chấp nhận kháng cáo của ông P1, căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự, sửa bản án sơ thẩm theo hướng không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, lời trình bày của các đương sự, trình bày của luật sư, ý kiến của Kiểm sát viên.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: kháng cáo của bị đơn là trong hạn luật định, do đó Toà án giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.

[2] Về nội dung vụ án:

Nguyên đơn bà P khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế của cụ Lê Thị S1 để lại gồm 02 quyền sử dụng đất tọa lạc tại xã T, huyện D, tỉnh Bình Dương chia cho 07 người con của cụ S1.

Phần đất có diện tích đo đạc thực tế 7.299m² (gồm 15 thửa đất, tờ bản đồ số 42) và phần đất có diện tích đo đạc thực tế 403,6m² thuộc thửa 126, tờ bản đồ số 38 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số: 02285 QSDĐ/QĐ-UB ngày 06/11/2003 do Ủy ban nhân dân huyện D cấp cho cụ Lê Thị S1.

Ngoài ra bà P có yêu cầu tuyên bố Bản di chúc của cụ Lê Thị S1 lập ngày 30/10/2015 do Ủy ban nhân dân xã T chứng thực là vô hiệu và yêu cầu chia di sản thừa kế của cụ S1 theo quy định pháp luật.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập: bà Nguyễn Thị N đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Bị đơn ông P1 không đồng ý yêu cầu khởi kiện của bà P và bà N vì 02 phần đất trên đã được mẹ bà S1 di chúc ngày 30/10/2015 Ủy ban nhân dân xã T chứng thực để lại 02 phần đất trên cho ông.

Xét thấy: căn cứ theo tài liệu chứng cứ có tại hồ sơ thể hiện Về hàng thừa kế: cụ Nguyễn Văn S và cụ Lê Thị S1 có với nhau 07 người con gồm: Nguyễn Thị Ánh T2, Nguyễn Hoàng T3, Nguyễn Thị Hiền D2, Nguyễn Thị N, Nguyễn Thanh D1, bà là Nguyễn Thị Kim P và ông Nguyễn Thanh P1. Ngoài ra cha mẹ bà P không có người con riêng, con nuôi nào khác. Cụ Nguyễn Văn S, sinh năm 1939 (chết ngày 01/6/2001) và cụ Lê Thị S1, sinh năm 1939 (chết ngày 01/7/2019), ngoài ra cụ S1, cụ S không ai có con riêng hay con nuôi gì.

Như vậy hàng thừa kế của cụ S1 gồm 07 người con là bà T2, ông T3, bà D2, bà N, ông P1, ông D1 và bà P.

Về di sản thừa kế của cụ S1: Các đương sự trong vụ án thống nhất di sản do cụ S1 để lại gồm 02 quyền sử dụng đất tọa lạc tại xã T, huyện D, tỉnh Bình Dương là:

- Phần đất đo đạc thực tế diện tích 7.299m² (trong đó, đất mô 85,6m²) gồm các thừa 298, 300, 358, 359, 360, 361, 362, 368, 369, 370, 371, 372, 373, 443, 444, tờ bản đồ số 42. Tài sản trên đất có 300 cây cao su trồng 20 năm tuổi.

- Phần đất đo đạc thực tế 403m² (trong đó ONT 250m², CLN 153,6m²) thuộc thừa 126, tờ bản đồ số 38, tài sản trên đất có 01 căn nhà cấp 4 và các công trình phụ gồm mái che, nhà bếp, nhà kho, chuồng gà hiện bị đơn đang quản lý sử dụng.

Hai phần đất trên đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ: 02285/QSDĐ/QĐ-UB do Ủy ban nhân dân huyện D cấp ngày 06/11/2003 cho hộ bà Lê Thị S1.

Sự thừa nhận của các đương sự là những tình tiết không phải chứng minh theo Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Xét về nguồn gốc đất: năm 1997 cụ Nguyễn Văn S (là cha của nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan) được Ủy ban nhân dân huyện D cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số: 01456/342/QĐ-UB/2000 ngày 20/7/2000 với diện tích 27.087m² (gồm 25 thừa đất) trong đó: thố cư 300m², đất nông nghiệp 26.694m², hành lang lộ giới 30m² đến năm 2001 cụ S chết, anh chị em của bà P thống nhất để cho cụ Lê Thị S1 được toàn quyền sở hữu phần đất nêu trên. Cụ S1 đã kê khai đăng ký thừa kế quyền sử dụng đất đến ngày 06/11/2003 Ủy ban nhân dân huyện D cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất 02285 QSDĐ/QĐ-UB với diện tích 26.694m² (gồm 25 thửa).

Trong quá trình sử dụng cụ S1 đã chuyển nhượng và tặng cho quyền sử dụng đất như sau:

Năm 2003 chuyển nhượng cho bà H diện tích 9.771m² thuộc thửa 31.

Năm 2007 chuyển nhượng cho ông Nguyễn Văn T8 và Huỳnh Thị H1 một phần thừa 126, tờ bản đồ số 38, diện tích 284m² (trong đó: 50m² ONT, 225m² CLN, 9m² HLIG.

Năm 2007 chuyển nhượng bà Nguyễn Thị Kim N2 và ông Nguyễn Văn T9 diện tích 3.483m² (lúa); 1.116m² (lúa) thừa 634, 635, 330.

Cụ S1 tặng cho con Nguyễn Hoàng T3 + Lý Hoàng Oanh diện tích 1.038m² (một phần thừa 302, 357, 374 và 15m2 của thừa 297) Cụ S1 tiếp tục cho con Nguyễn Thị Huyền D cùng ông Nguyễn Văn K diện tích 3.096m² (một phần thửa 297, 302, 300, 359, 351, 358, 374 và thừa 301).

Năm 2015 cụ S1 tặng cho con Nguyễn Thị Kim P diện tích 195,5m² thửa 160, tờ bản đồ số 38 và bà P được Sở Tài Nguyên và Môi trường tỉnh B cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CS0038 ngày 13/10/2015.

Như vậy diện tích còn lại của O2 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của cụ Lê Thị S1 như sau:

Phần đất đo đạc thực tế diện tích 7.299m² (trong đó mộ là 85,6m², CLN 7.213,4m²) gồm 15 thửa, tờ bản đồ số 42.

Phần đất đo đạc thực tế diện tích 403,6m² thuộc thửa 126, tờ bản đồ số 38 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất 02285 QSDĐ/QĐ-UB do Ủy ban nhân dân huyện D cấp ngày 06/11/2003 cho cụ S1.

Tài sản trên O2 phần đất gồm: một nhà cấp 4, các công trình phụ và 300 cây cao su trồng khoảng 20 năm tuổi Xét Bản di chúc lập ngày 30/10/2015 được Ủy ban nhân dân xã T chứng thực thấy rằng: Bản di chúc do cụ Lê Thị S1 lập ngày 30/10/2015 đánh máy. Thời điểm chứng thực di chúc tại Ủy ban nhân dân xã T thì cụ S1 đủ sức khoẻ, minh mẫn, sáng suốt. Thể hiện ngày 29/10/2015 trước khi cụ lập di chúc cụ S1 đã khám sức khoẻ và có giấy khám sức khoẻ của Bệnh viện đa khoa cấp số 6285/GKSK-BVDK ngày 29/10/2015 (bút lục 214). Do đó, cho thấy cụ S1 có ý chí làm di chúc nên mới làm các thủ tục chuẩn bị giấy tờ cần thiết đến tại Ủy ban nhân dân xã T để thực hiện lập di chúc thì cụ S1 đi một mình, trường hợp cụ S1 có vấn đề sức khoẻ hoặc không minh mẫn sáng suốt thì người thực hiện việc chứng thực tại Ủy ban nhân dân xã C từ chối không chứng thực cho cụ S1. Ngoài ra nội dung chứng thực của chủ tịch Ủy ban nhân dân xã T có ghi rõ: theo sự nhận biết của tôi, tại thời điểm chứng thực bà Lê Thị S1 có đầy đủ năng lực, hành vi dân sự phù hợp theo quy định pháp luật (bút lục 215) Do đó, tại thời điểm chứng thực bản di chúc ngày 30/10/2015 thì cụ S1 đủ sức khoẻ minh mẫn, sáng suốt theo quy định tại điều 652 Bộ luật Dân sự năm 2005.

“1. di chúc hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:

a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép;

b) Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của luật”.

Ngoài ra trong quá trình tố tụng giải quyết vụ án nguyên đơn trình bày nguồn gốc đất của cụ bà Lê Thị S1: “Cha bà P chết vào năm 2001 nên tất cả các anh chị em trong nhà đều đồng ý để cho mẹ bà P là Lê Thị S1 được toàn quyền sở hữu phần tài sản là phần đất diện tích khoảng 26.994m² tọa lạc tại xã T, huyện D, tỉnh Bình Dương. Do đó, bà S1 đã được Ủy ban nhân dân huyện D cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào số 02285 QSDĐ/QĐ-UB vào ngày 06/11/2003” cho nên cụ S1 có quyền lập di chúc định đoạt tài sản của mình theo quy định Điều 164 Bộ luật Dân sự quy định: “Quyền số hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ số hữu theo quy định của luật”.

Thực tế cụ S1 đã kê khai thừa kế quyền sử dụng đất và được cấp số vào năm 2003 đối với các thửa đất, tờ bản đồ số 38 và số 42 tọa lạc tại ấp C, xã T, huyện D, tỉnh Bình Dương theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số W 995329, quá trình sử dụng cụ S1 đã chuyển nhượng cho nhiều người và tặng cho các con của mình, không bị ai ngắn cần cho nên cụ S1 có quyền định đoạt đối với tài sản trên.

Căn cứ theo Điều 631 Bộ luật Dân sự 2005 quy định về quyền thừa kế của cá nhân:

“Cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật; hướng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật Người thừa kế không là cá nhân có quyền hướng di sản theo di chúc”.

Do vậy, cụ S1 có quyền lập di chúc để định đoạt thửa đất số 126, 298, 360, 444, 299, 362, 361, 369, 359, 358, 372, 373, 371, 369, 370, 443, tờ bản đồ số 38 và số 42 tọa lạc tại ấp C, xã T, huyện D, tỉnh Bình Dương cho ông Nguyễn Thanh P1 là phù hợp.

Tại Công văn số 157/UBND-TP ngày 18/5/2023 của Ủy ban nhân dân xã T, huyện D (bút lục 224) có ý kiến như sau:

Theo hồ sơ lưu trữ tại Ủy ban nhân dân xã thể hiện ngày 30/10/2015 Ủy ban nhân dân xã T có chứng thực chữ ký vào di chúc của bà Lê Thị S1, việc chứng thực bản di chúc có đúng trình tự thủ tục hay không, Ủy ban nhân dân xã đề nghị căn cứ kết quả thẩm tra, xác minh thực tế và chứng cứ đã cung cấp để xử lý theo quy định.

Trong quá trình tố tụng, giải quyết vụ án tại Toà án cấp sơ thẩm nguyên đơn bà P cho rằng bản di chúc lập ngày 30/10/2015 do Ủy ban nhân dân xã T chứng thực có nhiều vi phạm như di chúc không đóng dấu giáp lai, không có người làm chứng, cụ S1 không biết chữ nhưng bản di chúc không có điểm chỉ (lần tay).

Xét tại phiên toà phúc thẩm nguyên đơn bà P và những người con của cụ S1 (trừ ông P1) không thừa nhận chữ ký của cụ S1 tại bản di chúc ngày 30/10/2015 nhưng không yêu cầu giám định, đối với ông P1 thừa nhận chữ ký của cụ S1 trong bản di chúc. Ngoài ra các đương sự thừa nhận thời gian cụ S1 còn sống quản lý, sử dụng đất đã tặng cho các con đất và chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho nhiều người khác thông qua các hợp đồng thể hiện có chữ ký của cụ S1, các anh chị em của nguyên đơn không có ý kiến phản đối hoặc tranh chấp đối với cụ S1 về việc chuyển nhượng, tặng cho quyền sử dụng đất. Cho nên bản di chúc lập ngày 30/10/2015 có chữ ký của cụ Lê Thị S1 và đã Ủy ban nhân dân xã T chứng thực là phù hợp. Điều này thể hiện ý chí của cụ S1 lập di chúc toàn bộ diện tích đất còn lại của mình theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho con là ông Nguyễn Văn P2 sau khi cụ S1 chết là hoàn toàn phù hợp với quy định tại Điều 646 Bộ luật Dân sự năm 2005. Toà án cấp sơ thẩm áp dụng Điều 634 Bộ luật Dân sự năm 2015 về di chúc bằng văn bản có người làm chứng là chưa phù hợp, đối với trường hợp lập di chúc của cụ S1, do cụ S1 không tự mình thực hiện đánh máy hoặc nhờ người khác viết bản di chúc và việc cụ S1 lập di chúc tại Ủy ban nhân dân xã và được Ủy ban nhân dân xã T chứng thực di chúc của cụ S1 là có thật đúng quy định pháp luật. Bởi vì tại Biên bản xác minh ngày 24/4/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương của Ủy ban nhân dân xã T cung cấp thông tin như sau: hiện nay Ủy ban nhân dân xã T đang lưu trữ bản chính của cụ Lê Thị S1 lập ngày 30/10/2015 đã được Ủy ban nhân dân xã T chứng thực. Nội dung “di chúc” bị đơn ông P2 cung cấp và nội dung “di chúc” được lưu tại Ủy ban nhân dân xã T là hoàn toàn giống nhau. Như vậy đã có cơ sở xác định nội dung di chúc của cụ S1 lập do bị đơn cung cấp và nội dung bản di chúc của cụ S1 đã được Ủy ban nhân dân xã L là hoàn toàn có thật.

Bản di chúc gồm 01 tờ , 02 trang có chữ ký của cụ Lê Thị S1 được Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã T ông Hoàng Văn T10 chứng thực ngày 30/10/2015.

Việc cụ S1 lập di chúc tại Ủy ban nhân dân xã T chứng thực phù hợp với quy định tại Điều 657, 658 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định về di chúc có công chứng hoặc chứng thực và thủ tục lập di chúc tại tổ chức hành nghề công chứng hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã.

“Việc lập di chúc tại tổ chức hành nghề công chứng hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã phải tuân theo thủ tục sau đây:

1. Người lập di chúc tuyên bố nội dung của di chúc trước công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã phải ghi chép lại nội dung mà người lập di chúc đã tuyên bố. Người lập di chúc ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc sau khi xác nhận bản di chúc đã được ghi chép chính xác và thể hiện đúng ý chí của mình. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã ký vào bản di chúc.

Do đó, bản di chúc của cụ Lê Thị S1 lập ngày 30/10/2015 do Ủy ban nhân dân xã T chứng thực là có thật, về nội dung bản di chúc là phù hợp với quy định. Việc bản di chúc không có đóng dấu giáp lai là thủ tục hành chính của người thực hiện chứng thực, chứ không phải lỗi của người đi lập di chúc, việc nguyên đơn cho rằng bản di chúc lập không có người làm chứng, Ủy ban nhân dân xã C không có đóng dấu giáp lai, phần chứng thực của Ủy ban nhân dân xã tại trang số 2 nhưng phần nội dung của di chúc do cụ S1 lập không có số trang. Nguyên đơn cho rằng không biết nội dung di chúc do cụ S1 lập hay do người khác lập không và không biết nội dung của di chúc ngày 30/10/2015 có phải do cụ S1 để lại hay không và nội dung của di chúc có đúng hay không. Căn cứ vào Công văn số 157/ UBND-TP ngày 18/5/2023 của Ủy ban nhân dân xã T, huyện D và Biên bản xác minh ngày 24/4/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương xác định cụ Lê Thị S1 lập di chúc ngày 30/10/2015 được Ủy ban nhân dân xã T chứng thực là hoàn toàn có thật và phù hợp với quy định. Việc nguyên đơn yêu cầu tuyên bố bản di chúc của cụ Lê Thị S1 lập ngày 30/10/2015 vô hiệu là không có cơ sở chấp nhận.

Từ những phân tích trên với các tài liệu chứng cứ thể hiện trong hồ sơ vụ án Toà án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập là chưa phù hợp. Tại cấp phúc thẩm người kháng cáo đã cung cấp tài liệu, chứng cứ mới làm thay đổi nội dung của vụ án nên chấp nhận kháng cáo bị đơn.

[3] Ý kiến của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn là chưa phù hợp nên không được chấp nhận.

[4] Ý kiến của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn là phù hợp nên được chấp nhận.

[5] Ý kiến đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương là phù hợp.

[6] Về chi phí tố tụng: Các đương sự phải chịu theo quy định của pháp luật.

[7] Về án phí: Các đương sự phải chịu theo quy định định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Điều 148, khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

- Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông Nguyễn Thanh P1.

2. Sửa Bản án dân sự sơ thẩm số 109/2023/DS-ST ngày 22/9/2023 của Tòa án nhân dân huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương.

3. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Kim P đối với bị đơn ông Nguyễn Thanh P1 về việc “tranh chấp về thừa kế tài sản, yêu cầu tuyên bố di chúc vô hiệu”.

4. Không chấp nhận yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị N đối với bị đơn ông Nguyễn Thanh P1 về việc “tranh chấp về thừa kế tài sản”.

5. Chi phí tố tụng: bà Nguyễn Thị Ánh T2, ông Nguyễn Hoàng T3, bà Nguyễn Thị Huyền D, bà Nguyễn Thị N, ông Nguyễn Thanh D1 và ông Nguyễn Thanh P1 mỗi người phải nộp 2.128.392 đồng (hai triệu một trăm hai mươi tám nghìn ba trăm chín mươi hai đồng) để trả lại cho bà Nguyễn Thị Kim P.

Tại cấp phúc thẩm chi phí định giá là 3.000.000 đồng (ba triệu đồng), bà Nguyễn Thị Ánh T2, ông Nguyễn Hoàng T3, bà Nguyễn Thị Huyền D, bà Nguyễn Thị N, bà Nguyễn Thị Kim P phải chịu mỗi người 500.000 đồng (nằm trăm nghìn đồng) để trả lại cho bị đơn ông Nguyễn Thanh P1.

6. Về án phí dân sự sơ thẩm: Các đương sự không phải chịu theo quy định.

7. Về án phí dân sự phúc thẩm: Ông Nguyễn Thanh P1 không phải chịu.

Hoàn trả cho ông Nguyễn Thanh P1 số tiền 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu số 0009456 ngày 29/9/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Dầu Tiếng.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực thi hành kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

9
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp thừa kế tài sản, yêu cầu tuyên bố di chúc vô hiệu số 327/2024/DS-PT

Số hiệu:327/2024/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bình Dương
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 25/06/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;