Bản án về tranh chấp thoả thuận sử dụng thẻ tín dụng số 111/2021/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN CẨM LỆ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 111/2021/DS-ST NGÀY 24/09/2021 VỀ TRANH CHẤP THỎA THUẬN SỬ DỤNG THẺ TÍN DỤNG

Ngày 24 tháng 09 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 173/2021/TLST-DS ngày 01 tháng 12 năm 2020 về “Tranh chấp thỏa thuận sử dụng thẻ tín dung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 57/2021/QĐXXST-DS ngày 01/6/2021 và quyết định hoãn phiên tòa số 61/2021/QĐST-DS ngày 28/06/2021 và thông báo mở lại phiên tòa ngày 06/9/2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ngân hàng thương mại cổ phần S (Sau đây viết tắt là Ngân hàng hoặc S); Hội sở chính: Lầu 8, số 266-268 đường N, phường A, quận B, TP Hồ Chí Minh; Chi nhánh Ngân hàng TMCP S tại Đà Nẵng: Số 130-132 đường B, phường H, quận H, TP Đà Nẵng. Người đại diện theo pháp luật bà Nguyễn Đức Thạch D, chức vụ: Tổng giám đốc; người đại diện theo ủy quyền: Ông Hoàng Thanh H; Chức vụ: Giám đốc Ngân hàng TMCP S chi nhánh tại TP Đà Nẵng; Người ủy quyền tham gia tố tụng; ông Võ Thanh H, chức vụ: Phó phòng giao dịch Nguyễn Văn Linh - Ngân hàng TMCP S chi nhánh Đà Nẵng. Ông H, có mặt.

- Bị đơn: Ông Phan Thanh S, sinh năm 1971; Địa chỉ: K387/8 đường C, tổ 28 phường H, quận C, TP Đà Nẵng; Vắng mặt lần thứ 2 không có lý do.

NỘI DUNG BẢN ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 07/10/2020 và bản tự khai ngày 07/10/2020 và tại phiên tòa sơ thẩm thì nguyên đơn và người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn - Ngân hàng TMCP S trình bày:

Ngày 16/10/2017, ông Phan Thanh S có ký với Ngân hàng TMCP S hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng (bao gồm: Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiểm hợp đồng và bản Điều khoản và Điều kiện phát hành và sử dụng thẻ của Ngân hàng). Căn cứ vào thu nhập của ông S, Ngân hàng đã đồng ý cấp thẻ tín dụng với hạn mức là 15.000.000 đồng, với lãi suất 30%/năm, mục đích: Tiêu dùng cá nhân. Sau khi được cấp thẻ tín dụng, ông S đã thực hiện 17 giao dịch với số tiền 239.331.000 đồng. Trong quá trình sử dụng thẻ, từ ngày kích hoạt đến ngày khởi kiện ông S đã thanh toán cho Ngân hàng số tiền 228.974.000 đồng.

Qua nhiều lần nhắc nhở, làm việc ông S vẫn không có thiện chí trả nợ. Do ông S vi phạm nghĩa vụ thanh toán nên ngày 01/12/2019 Ngân hàng đã chấm dứt quyền sử dụng thẻ, từ ngày 01/04/2020 chuyển toàn bộ dư nợ còn thiếu sang nợ quá hạn (Điều 23 của Bản Điều khoản và Điều kiện sử dụng thẻ). Tính đến ngày 07/10/2020, ông Phan Thanh S còn nợ Ngân hàng tổng số tiền 22.006.628 đồng, trong đó bao gồm: Dư nợ: 17.647.648 đồng (trong đó gồm: Nợ gốc: 14.995.795 đồng; Lãi trong hạn:

1748.775 đồng, phí trễ hạn: 703.078 đồng, Phí vượt hạn mức: 200.000 đồng); Lãi quá hạn: 4.358.980 đồng.

Mặc dù Ngân hàng đã thường xuyên đôn đốc, nhiều lần làm việc trực tiếp và yêu cầu ông S có trách nhiệm thanh toán ngay khoản nợ quá hạn, đồng thời Ngân hàng cũng tạo điều kiện về mặt thời gian để ông Sơn trả nợ. Tuy nhiên ông S vẫn chưa thanh toán khoản nợ vay quá hạn cho Ngân hàng, vi phạm các điều khoản đã quy định tại hợp đồng.

Do vậy, Ngân hàng TMCP S kính đề nghị quý Tòa thụ lý đơn khởi kiện và hỗ trợ Ngân hàng thu hồi nợ vay, cụ thể:

Tuyên buộc ông Phan Thanh S phải thanh toán nợ vay cho Ngân hàng TMCP S số tiền gốc và lãi phát sinh tính đến ngày xét xử ngày 24/09/2021 là: 30.082.212 đồng, trong đó bao gồm: Dư nợ gốc: 17.647.648 đồng ((trong đó gồm: Nợ gốc: 14.995.795 đồng; Lãi trong hạn: 1748.775 đồng, phí trễ hạn: 703078 đồng, Phí vượt hạn mức: 200.000 đồng), lãi quá hạn 12.434.564 đồng.

Tại giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng ông Phan Thanh S cung cấp địa chỉ thường trú tại: Tổ 38 phường H, quận Hả, TP Đà Nẵng; chỗ ở: 387/8 đường C, phường H, quận C, TP Đà Nẵng. Quá trình thụ lý, Tòa án đã tiến hành xác minh địa chỉ của bị đơn, theo biên bản xác minh ngày 23/12/2020 Công an phường H xác định ông Phan Thanh S trước đây có nhà ở và sinh sống tại địa chỉ 387/8 đường C, phường H, quận C, TP Đà Nẵng, từ cuối năm 2018 đến nay ông S đã bán nhà đi khỏi địa phương. Theo biên bản xác minh ngày 23/03/2021 thì Công an phường H xác định ông Phan Thanh S có đăng ký thường trú tại phường H nhưng hiện không còn sinh sống tại địa phương. Tòa án tiến hành niêm yết các văn bản tố tụng cho ông Phan Thanh S như thông báo thụ lý, thông báo về việc kiểm tra giao nộp chứng cứ và hòa giải, quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa cho ông Sơn theo đúng quy định của pháp luật, nhưng ông S vẫn vắng mặt không có lý do.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Cẩm Lệ phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, HĐXX, thư ký phiên tòa: Qúa trình thụ lý giải quyết vụ án Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung tranh chấp: Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào các điều 117,118, 119, 401, 463, 466, 468 Bộ luật Dân sự; Án lệ 08/2016.

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Ngân hàng TMCP S, buộc bị đơn ông Phan Thanh S phải thanh toán cho Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín tổng số tiền 30.082.212 đồng.

Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sở thẩm, bị đơn ông Phan Thanh S còn phải tiếp tục thanh toán phần nợ lãi phát sinh tương ứng với số tiền nợ theo lãi suất quy định tại giấy đề nghị mở thẻ kiêm hợp đồng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ.

Về án phí: Bị đơn, nguyên đơn phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh luận tại phiên tòa và những tình tiết của vụ án, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Về xác định quan hệ tranh chấp: Ngân hàng TMCP S yêu cầu Tòa án giải quyết, buộc ông Phan Thanh S phải trả cho Ngân hàng số tiền số tiền 22.006.628 đồng tạm tính đến ngày 07/10/2020, tính đến ngày xét xử ngày 24/9/2021 là 30.082.212 đồng, theo thỏa thuận tại Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng ngày 16/10/2017, Bản điều khoản và điều kiện phát hành thẻ tín dụng của Ngân hàng. Ngoài ra, ông Sơn và Ngân hàng TMCP S không xác lập hợp đồng tín dụng nào khác. Qúa trình thụ lý giải quyết vụ án Tòa án xác định quan hệ tranh chấp hợp đồng tín dụng là chưa phù hợp. Tại phiên tòa Hội đồng xét xử xác định lại quan hệ tranh chấp trong vụ án là “Tranh chấp thỏa thuận sử dụng thẻ tín dụng” theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 14 Nghị định 101/2012/NĐ–CP ngày 22/11/2012 của Chính phủ về thanh toán không dùng tiền mặt và khoản 15 Điều 4 Luật các Tổ chức tín dụng.

[1.2] Về thẩm quyền giải quyết: Đây là vụ án tranh chấp về giao dịch dân sự, cụ thể là “Tranh chấp thỏa thuận sử dụng thẻ tín dụng”, thông qua hình thức mở thẻ tín dụng giữa Ngân hàng Thương mại Cổ phần S và ông Phan Thanh S. Bị đơn có nơi cư trú tại: tổ 28, phường H, quận C, TP Đà Nẵng. Do đó, Tòa án nhân dân quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng thụ lý giải quyết vụ án là đúng về thẩm quyền theo quy định tại khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; Điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[1.3] Về sự vắng mặt của bị đơn: Tòa án đã tống đạt hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử; Quyết định hoãn phiên tòa cho bị đơn ôn Phan Thanh S nhưng ông S vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do nên căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử xử vắng mặt bị đơn.

[2] Về nội dung yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Quá trình thụ lý, giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn Ngân hàng TMCP S yêu cầu Tòa án buộc ông Phan Thanh S phải trả cho Ngân hàng tổng số tiền 30.082.212 đồng, tính đến ngày xét xử hôm nay 24/9/2021. Trong đó bao gồm: Dư nợ: 17.647.648 đồng (trong dư nợ gồm các khoản: nợ gốc: 14.995.795 đồng, lãi trong hạn 1.748.775 đồng, phí trễ hạn: 703.078 đồng và phí vượt hạn mức là 200.000 đồng) và khoản lãi quá hạn 12.434.564 đồng. Đồng thời đề nghị ông S phải tiếp tục chịu lãi suất theo giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng đã ký kết tính từ ngày 25/9/2021 cho đến khi thanh toán xong khoản nợ.

[3] Xét yêu cầu của đương sự, trên cơ sở xem xét các tài liệu chứng cứ có tại hồ sơ vụ án và ý kiến, trình bày của các bên đương sự, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[3.1] Đối với yêu cầu trả nợ gốc 14.995.795 đồng (trong phần dư nợ): Ngày 16/10/2017, ông Phan Thanh S ký với Ngân hàng TMCP S Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng, theo đó Ngân hàng TMCP S cấp cho ông Phan Thanh S thẻ tín dụng với hạn mức 15.000.000 đồng. Tại phần cam kết của Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng có nội dung“Bằng việc ký vào mẫu đơn này, tôi/chúng tôi xác nhận rằng tôi/ chúng tôi đã đọc và đồng ý bị ràng buộc bởi Điều khoản và Điều kiện của thẻ tín dụng và cùng với mẫu đơn này tạo nên một Hợp đồng chi phối việc phát hành và sử dụng thẻ tín dụng Sacombank …”. Tại mục 23 của Điều khoản và Điều kiện sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng TMCP S quy định “Việc không thanh toán số tiền tối thiểu của chủ thẻ đến kỳ phát hành thông báo tiếp theo sẽ tạo nên sự vi phạm hợp đồng, trong trường hợp này toàn bộ tổng dư nợ sẽ trở nên đến hạn ngay lập tức và chủ thẻ phải thanh toán…”. Bản Điều khoản và điều kiện sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng TMCP S đã được Ngân hàng đăng tải công khai trên công thông tin điện tử của Ngân hàng. Theo các tài liệu, chứng cứ mà Ngân hàng TMCP S cung cấp thể hiện: Sau khi được cấp thẻ tín dụng, ông S đã thực hiện 17 giao dịch với số tiền 239.331.000 đồng, ông S đã thanh toán cho Ngân hàng số tiền 228.974.000 đồng. Tính đến ngày 30/11/2019 dư nợ gốc của ông Sơn là 14.995.795 đồng, từ thời điểm đó đến nay ông S không thanh toán được nợ gốc, nợ lãi và các khoản phí cho Ngân hàng. Như vậy, theo bản Điều khoản và Điều kiện sử dụng thẻ như đã viện dẫn nêu trên thì ông S đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán đối với S. Do đó, Ngân hàng yêu cầu ông S phải thanh toán nợ cho Ngân hàng trong đó có khoản nợ gốc 14.995.795 đồng là có cơ sở, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3.2] Đối với yêu cầu của Ngân hàng buộc bị đơn trả khoản lãi trong hạn 1.748.775 (trong phần dư nợ): Theo cam kết tại giấy đề nghị cấp thẻ kiêm hợp đồng thì các bên thỏa thuận lãi suất 30%/năm. Về phương pháp tính lãi và số tiền làm căn cứ tính lãi đối với khoản lãi trong hạn, theo mục 22 của bản Điều kiện và điều khoản sử dụng thẻ quy định “…Chủ thẻ phải thanh toán lãi cho đơn vị Phát hành thẻ đối với tất cả các khoản nợ được thể hiện trong thông báo giao dịch…”. Như vậy thì số tiền làm căn cứ tính lãi trong hạn bao gồm toàn bộ dư nợ đến hạn gồm cả nợ gốc, lãi và các loại phí. Theo đó, Ngân hàng yêu cầu bị đơn ông Phan Thanh S phải thanh toán khoản lãi trong hạn từ ngày 30/11/2019 đến ngày 31/3/2021 với số tiền là 1.748.775 đồng. Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 2 Điều 9 Quyết định  652/2001/QĐ-NHNN ngày 17/5/2001 của Ngân hàng nhà nước về việc ban hành Quy định phương pháp tính và hạch toán thu, trả lãi của Ngân hàng Nhà nước và các tổ chức tín dụng thì “số tiền làm căn cứ để tính lãi là số tiền thực tế đã huy động của khách hàng hoặc số tiền thực tế đã cho khách hàng vay”. Do đó, nội dung thỏa thuận tại bản Điều khoản và điều kiện sử dụng thẻ tại mục 22 nêu trên là trái với quy định tại Quyết định 652/2001/QĐ-NHNN và Quyết định 20/2007/QĐ–NHNN của Ngân hàng Nhà nước. Nên Hội đồng xét xử không chấp nhận phương pháp tính lãi trong hạn đối với toàn bộ khoản nợ bao gồm cả khoản lãi, các loại phí cộng dồn, mà chỉ tính lãi trong hạn trên số tiền nợ gốc là 14.995.795 đồng, tương ứng với thời gian chậm trả, theo mức lãi suất các bên thỏa thuận, cụ thể như sau: Chậm thanh toán từ ngày 01/1/2019 đến ngày 31/3/2020 là 122 ngày, lãi suất trong hạn được các bên thỏa thuận là 30%, nên tiền lãi trong hạn là: 14.995.795 đồng x 30%/năm x 122 ngày = 1.503.687 đồng. Hội đồng xét xử không chấp nhận một phần yêu cầu của Ngân hàng về tính lãi trong hạn với số tiền (1.748.775 đồng – 1.503.687 đồng) = 245.088 đồng).

[3.3] Đối với yêu cầu của nguyên đơn buộc bị đơn trả khoản lãi quá hạn đến ngày xét xử ngày 24/9/2021 với số tiền 12.434.564 đồng: theo mục 23 của Bản điều khoản và điều kiện sử dụng thẻ quy định “Việc không thanh toán ít nhất số tiền tối thiểu của chủ thẻ cho đến kỳ hạn phát hành thông báo tiếp theo sẽ tạo nên sự vi phạm hợp đồng. Trong trường hợp này toàn bộ dự nợ sẽ trở thành đến hạn ngay lập tức …áp dụng lãi suất nợ quá hạn (là 150% của lãi suất được công bố áp dụng tại thời điểm hiện tại) phù hợp với điều 22 đối với toàn bộ dự nợ…”. Như vậy, Ngân hàng xác định phương pháp tính lãi quá hạn được tính trên toàn bộ dư nợ đến hạn, bao gồm nợ gốc cộng dồn với các khoản lãi trong hạn và các loại phí. Theo đó Ngân hàng yêu cầu bị đơn phải thanh toán nợ lãi quá hạn đến ngày xét xử với số tiền 12.434.564 đồng. Tuy nhiên theo điểm c khoản 4 Điều 13 Thông tư 39/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 của Ngân hàng Nhà nước quy định “Trường hợp khoản nợ vay bị chuyển nợ quá hạn, thì khách hàng phải trả lãi trên dư nợ gốc bị quá hạn tương ứng với thời gian chậm trả, lãi suất không vượt quá 150% lãi cho vay trong hạn”. Như vậy thỏa thuận tại Bản điều khoản và điều kiện sử dụng thẻ về số tiền làm căn cứ để tính lãi quá hạn bao gồm cả nợ gốc cộng dồn với khoản lãi trong hạn và các loại phí là trái với quy định của điểm c khoản 4 Điều 13 Thông tư 39/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 của Ngân hàng Nhà nước như đã viện dẫn nêu trên. Nên Hội đồng xét xử chỉ chấp nhận tính lãi suất quá hạn đối với số tiền nợ gốc 14.995.795 đồng, tương ứng với thời gian quá hạn, theo mức lãi quá hạn các bên thỏa thuận, như sau: Thời gian quá hạn từ ngày 01/4/2020 đến ngày xét xử hôm này ngày 24/9/2021 là 545 ngày, lãi được tính như sau: 14.995.795 đồng x 30%/năm x 150% x 545 ngày = 10.075.941 đồng. Hội đồng xét xử không chấp một phần yêu cầu của Ngân hàng về tính lãi quá hạn với số tiền (12.434.564 đồng - 10.075.941 đồng) = 2.358.623 đồng.

[3.4] Đối với yêu cầu của nguyên đơn buộc bị đơn trả các khoản phí (trong phần dư nợ): Tại mục 24 bản Điều khoản điều kiện sử dụng thẻ quy định khách hàng phải chịu các loại phí như phí trễ hạn, phí vượt hạn mức. Việc thỏa thuận về mức phí và các loại phí của các bên phù hợp với Điều 91 Luật các Tổ chức tín dụng và Thông tư 12/2010/TT – NHNN ngày 14/4/2010 của Ngân hàng nhà nước về hướng dẫn tổ chức tín dụng cho vay bằng đồng Việt Nam nên được Hội đồng xét xử chấp nhận, buộc bị đơn phải trả khoản phí trễ hạn: 703.078 đồng; phí vượt hạn mức: 200.000 đồng. Tổng các loại phí là 903.078 đồng.

Như vậy, tổng cộng số tiền Hội đồng xét xử chấp nhận buộc bị đơn ông Phan Thanh S phải thanh toán cho Ngân hàng TMCP S là: 27.478.501 đồng (hai mươi bảy triệu bốn trăm bảy mươi tám đồng, năm trăm lẻ một đồng), trong đó bao gồm: Nợ gốc: 14.995.795 đồng; Lãi trọng hạn: 1.503.687 đồng; Phí: 903.078 đồng; Lãi quá hạn: 10.075.941 đồng) Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm khách hàng vay còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc 14.995.795 đồng chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc. Trường hợp các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất mà khách hàng vay phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng cho vay theo Quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh của Ngân hàng cho vay.

Hi đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu của Ngân hàng TMCP S đối với yêu cầu buộc bị đơn ông Phan Thanh S phải trả số tiền 2.603.711 đồng, trong đó bao gồm: lãi trong hạn 245.088 đồng đồng, lãi quá hạn 2.358.623 đồng.

[4] Về án phí:

Bị đơn ông Phan Thanh S phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được Tòa án chấp nhận là: 27.478.501 đồng x 5% = 1.373.925 đồng.

Nguyên đơn Ngân hàng TMCP S phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với phần yêu cầu không được Tòa án chấp nhận: 300.000 đồng.

QUYẾT ĐỊNH 

I. Căn cứ:

Khon 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 40; điểm b khoản 2 Điều 227; Điều 271; Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

Khon 15 Điều 4; Khoản 2 Điều 91; Điều 95 Luật các tổ chức tín dụng;

Điểm b khoản 1 Điều 14 Nghị định 101/2012/NĐ–CP ngày 22/11/2012 của Chính phủ về thanh toán không dùng tiền mặt.

Thông tư 12/2010/TT–NHNN ngày 14/4/2010 của Ngân hàng nhà nước về hướng dẫn tổ chức tín dụng cho vay bằng đồng Việt Nam đối với khách hàng theo lãi suất thỏa thuận.

Các Điều 6, 22 Quy chế ban hành theo Quyết định 20/2007/QĐ–NHNN ngày 15/5/2017 của Thống đốc Ngân hàng nhà nước.

Khon 2 Điều 17 Thông tư 19/2016/TT-NHNN ngày 30/06/2016 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về hoạt động thẻ ngân hàng.

Khon 2 Điều 9 Quyết định 652/2001/QĐ-NHNN ngày 17/05/2001 của Ngân hàng nhà nước về việc ban hành Quy định phương pháp tính và hạch toán thu, trả lãi của Ngân hàng Nhà nước và các tổ chức tín dụng.

Khon 4 Điều 26 Nghị quyết 326/2016 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Án lệ số 08/2016/AL về xác định lãi suất, việc điều chỉnh lãi suất trong hợp đồng tín dụng kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sở thẩm được công bố theo Quyết định 698/QĐ-CA ngày 17/10/2019 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

II. Tuyên xử: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng Thương mại Cổ phần S đối với ông Phan Thanh S về “Tranh chấp thỏa thuận sử dụng thẻ tín dụng”.

2.1. Buc ông Phan Thanh S phải có nghĩa vụ trả cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần S số tiền nợ tổng cộng là cộng 27.478.501 đồng (hai mươi bảy triệu bốn trăm bảy mươi tám đồng, năm trăm lẻ một đồng), trong đó bao gồm:

+ Nợ gốc: 14.995.795 đồng (mười bốn triệu, chín trăm chín mươi lăm nghìn, bảy trăm chín mươi lăm đồng);

+ Nợ lãi trọng hạn: 1.503.687 đồng (Một triệu năm trăm lả ba nghìn, sáu trăm tám mươi bảy đồng);

+ Nợ lãi quá hạn: 10.075.941 đồng (Mười triệu, không trăm bảy mươi lăm nghìn, chín trăm bốn mươi mốt đồng);

+ Phí trễ hạn và phí vượt hạn mức: 903.078 đồng (chín trăm lẻ ba nghìn, không trăm bảy tám đồng);

2.2 Về nghĩa vụ chậm thi hành án: Kể từ ngày 25/9/2021 ông Phan Thanh S còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc 14.995.795 đồng chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận giấy đề nghị mở thẻ kiêm hợp đồng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc. Trường hợp các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất mà khách hàng vay phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng cho vay theo Quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh của Ngân hàng cho vay.

III. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng Thương mại cổ phần S buộc bị đơn ông Phan Thanh S phải trả số tiền 2.603.711 đồng (hai triệu, sáu trăm lẻ ba nghìn, bảy trăm mười một đồng), trong đó bao gồm: lãi trong hạn 245.088 đồng; lãi quá hạn 2.358.623 đồng.

IV. Về án phí và quyền kháng cáo.

+ Ông Phan Thanh S phải chịu 1.373.925 đồng (Một triệu, ba trăm bảy mươi ba nghìn, chín trăm hai mươi lăm đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

+ Ngân hàng Thương mại cổ phần S phải chịu 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 550.166 đồng mà Ngân hàng đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0008533 ngày 27/11/2020 của Chi cục thi hành án dân sự quận Cẩm Lệ. Hoàn lại cho Ngân hàng TMCP S số tiền 250.166 đồng mà Ngân hàng đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai nêu trên.

Về quyền kháng cáo: Án xử sơ thẩm, báo cho nguyên đơn có mặt tại phiên tòa biết có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án hôm nay. Riêng bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7, 9 Luật thi hành án; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

349
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp thoả thuận sử dụng thẻ tín dụng số 111/2021/DS-ST

Số hiệu:111/2021/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Cẩm Lệ - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 24/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;