TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NGA SƠN, TỈNH THANH HÓA
BẢN ÁN 16/2024/HNGĐ-ST NGÀY 29/03/2024 VỀ TRANH CHẤP THAY ĐỔI NGƯỜI TRỰC TIẾP NUÔI CON
Ngày 29 tháng 3 năm 2024, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện N xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 235/2023/TLST-HNGĐ ngày 07 tháng 12 năm 2023 về việc “Tranh chấp về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 08/2024/QĐXX-ST, ngày 21 tháng 02 năm 2024; Quyết định hoãn phiên tòa số 12/2024/QĐST-HNGĐ, ngày 13 tháng 3 năm 2024, giữa:
1/ Nguyên đơn: Chị Trần Thị L - Sinh năm 1990 Địa chỉ: Thôn 4, xã Nga An, huyện N, tỉnh H (có mặt)
2/ Bị đơn: A Đỗ Văn C (K) - Sinh năm 1981 Địa chỉ: Thôn 7, xã Nga Thái, huyện N, tỉnh H (vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn, đề ngày 14/11/2023, bản tự khai nguyên đơn chị Trần Thị L trình bày: chị và anh Đỗ Văn C (K) là vợ chồng. Do vợ chồng sống không hạnh phúc nên năm 2020, chị và anh Đỗ Văn C (K) ly hôn. Tại bản án số 48/2020/HNGĐ-ST, ngày 03/9/2020, Tòa án nhân dân huyện N xử cho vợ chồng chị ly hôn; về con: vợ chồng có 03 con chung là Đỗ Thị Yến N, sinh ngày 17/4/2009; Đỗ Thị Quỳnh A, sinh ngày 15/3/2011 và Đỗ Thanh L, sinh ngày 25/3/2013, giao cả 03 cháu cho anh C (K) trực tiếp nuôi con, chị không phải cấp dưỡng nuôi con, nhưng được quyền thăm nom, chăm sóc con chung anh C không được cản trở. Tuy nhiên, mỗi khi chị về thăm con, anh C cản trở không cho chị thăm con, không cho con về thăm chị. Trong thời gian anh C nuôi con thường xuyên chửi bới, đánh đập, không tôn trọng các cháu. Vì lý do trên, các cháu Đỗ Thị Yến N và Đỗ Thị Quỳnh A có nguyện vọng muốn ở với chị. Nếu được quyền thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn, chị đề nghị được nuôi hai cháu N và A; cháu L vẫn tiếp tục ở với anh C; về cấp dưỡng nuôi con: chị không yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con chung.
Đối với bị đơn anh Đỗ Văn C (K): sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tống đạt thông báo thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải và các văn bản tố tụng khác theo quy định của pháp luật. Nhưng anh C (K) cố tình vắng mặt nên không có lời khai trong hồ sơ vụ án.
Vụ án có liên quan đến người chưa thành niên, Tòa án đã tiến hành xác minh nguyên nhân phát sinh tranh chấp theo đúng quy định tại khoản 3 Điều 208 của Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS).
Tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, anh C (K) vắng mặt nên việc kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ chỉ tiến hành được với nguyên đơn, đồng thời Tòa án không tiến hành hòa giải được.Vì vậy, Tòa án đã đưa vụ án ra xét xử theo quy định.
Mặc dù anh C (K) đã được triệu tập hợp lệ lần thứ nhất, nhưng vắng mặt tại phiên tòa. Căn cứ khoản 1 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên tòa.
Tại phiên tòa hôm nay, chị L vẫn giữ nguyên nội dung yêu cầu. Đối với bị đơn anh C (K) được Tòa án triệu tập hợp lệ lần hai, vẫn vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Căn cứ quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, HĐXX tiến hành xét xử vắng mặt anh C (K) .
* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện N phát biểu ý kiến:
- Việc tuân theo pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tuân theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; Những người tham gia tố tụng: nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật; bị đơn không chấp hành các quyền và nghĩa vụ theo quy định.
- Về việc giải quyết vụ án: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Trần Thị L, giao cháu Đỗ Thị Yến N, sinh ngày 17/4/2009 và cháu Đỗ Thị Quỳnh A, sinh ngày 15/3/2011 cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng; anh C (K) không phải cấp dưỡng nuôi con chung; về án phí: chị L phải chịu án phí DSST theo quy định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, và ý kiến trình bày của đương sự tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
* Về thủ tục tố tụng: Căn cứ khoản 3 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của BLTTDS thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh H.
* Về nội dung:
[1] Về con: Chị L và anh C có 03 con chung là Đỗ Thị Yến N, sinh ngày 17/4/2009; Đỗ Thị Quỳnh A, sinh ngày 15/3/2011 và Đỗ Thanh L, sinh ngày 25/3/2013. Tại bản án số 48/2020/HNGĐ-ST, ngày 03/9/2020, Tòa án nhân dân huyện N xử: giao cả 03 cháu cho anh C (K) trực tiếp nuôi con, chị L không phải cấp dưỡng nuôi con. Bên không trực tiếp nuôi con được quyền thăm nom, chăm sóc con chung anh C không được cản trở. Theo chị L trình bày, quá trình chung sống với anh C, anh C không cho các cháu đến thăm mẹ và cản trở chị mỗi khi về thăm con.Trong cuộc sống anh C hay chửi bới, đánh đập con nên cháu N và cháu A đều có nguyện vọng về ở với mẹ; cháu L vẫn tiếp tục ở cùng anh C Qua xác minh tại UBND xã Nga Thái thì từ khi chị L và anh C ly hôn cả ba cháu đều ở cùng anh C và ông bà nội. Hằng ngày các cháu cũng bị bố và ông bà nội quát nạt, chửi bới. Đối với anh C, anh biết chị L đề nghị thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn, nhưng anh không có ý kiến gì. Căn cứ vào nguyện vọng của các cháu chấp nhận việc thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn. Vì vậy, giao hai cháu N, A cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng; cháu L tiếp tục vẫn sinh sống cùng anh C; về cấp dưỡng nuôi con anh C không phải cấp dưỡng nuôi con chung do chị L không yêu cầu.
[2] Về án phí: Chị L phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ: Điều 81, Điều 82; Điều 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình;
khoản 3 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 24; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:
1. Về con chung: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Trần Thị L, giao các cháu Đỗ Thị Yến N, sinh ngày 17/4/2009 và Đỗ Thị Quỳnh A, sinh ngày 15/3/2011 cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng. A C (K) không phải cấp dưỡng nuôi con chung. Bên không trực tiếp nuôi con có quyền đi lại thăm nom, chăm sóc con chung, không ai được cản trở.
2. Về án phí: Chị Trần Thị L phải chịu án phí DSST về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng), nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí DSST đã nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu, ký hiệu BLTU/23, số 0005204, ngày 07 tháng 12 năm 2023 của Chi cục THADS huyện N, chị L đã nộp đủ án phí DSST.
3. Quyền kháng cáo: Chị L có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. A C (K) có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.
Bản án 16/2024/HNGĐ-ST về tranh chấp thay đổi người trực tiếp nuôi con
Số hiệu: | 16/2024/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Nga Sơn - Thanh Hoá |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 29/03/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về