TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN GÒ VẤP - THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 1425/2022/HNGĐ-ST NGÀY 07/09/2022 VỀ TRANH CHẤP THAY ĐỔI NGƯỜI TRỰC TIẾP NUÔI CON SAU KHI LY HÔN
Ngày 07 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Gò Vấp xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 598/2022/HNST ngày 26 tháng 04 năm 2022 về việc: “Tranh chấp thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 379/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 17 tháng 08 năm 2022, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Hồ Minh T - sinh năm: 1983; Địa chỉ: Đường A, Phường B, quận C, Thành phố Hồ Chí Minh. (Có mặt)
- Bị đơn: Ông Nguyễn Văn M - sinh năm: 1982; Địa chỉ: Đường D, Phường E, quận C, Thành phố Hồ Chí Minh. (Có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện ngày 13/4/2022 và các lời trình bày trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Hồ Minh T trình bày:
Bà T và ông M kết hôn năm 2007 và có 03 con chung tên Nguyễn Đức T, sinh năm: 2008; Nguyễn Thanh V, sinh năm 2012; Nguyễn Thanh N, sinh năm: 2015. Theo Quyết định công nhận thuận tình ly hôn số: 544/2016/QĐST-HNGĐ ngày 28/04/2016 của Tòa án nhân dân quận C, Thành phố Hồ Chí Minh, bà T và ông M thỏa thuận giao 03 con chung cho ông M nuôi dưỡng.
Tuy nhiên, trong quá trình nuôi dưỡng các con chung ông M thường xuyên bạo hành tinh thần các con, không cho con đi chơi mà chỉ cho con xem tivi, điện thoại. Nhiều lần bà T có yêu cầu ông M phải xem lại cách chăm sóc, giáo dục con chung nhưng ông M không nghe mà còn có những lời lẽ và hành vi xúc phạm bà. Mặc dù, bà thường xuyên ở cùng các con tại căn hộ của ông M nhưng cũng không giáo dục được các con. Nay vì tinh thần, sức khỏe của con. Bà đề nghị thay đổi quyền nuôi 03 con chung: Nguyễn Đức T, sinh năm: 2008; Nguyễn Thanh V, sinh năm 2012; Nguyễn Thanh N, sinh năm: 2015 sang cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng. Mỗi tháng yêu cầu ông M cấp dưỡng cho các con chung là 10.000.000 đồng.
Ông M trình bày: Ông và bà T đã ly hôn từ năm 2016. Từ đó đến nay ông M vẫn chăm sóc tốt các con chung. Mặc dù ông M và bà T đã ly hôn nhưng ông vẫn giao cho bà T chìa khóa căn hộ, thẻ thang máy chung cư của ông. Ông M luôn tạo mọi điều kiện để bà T có thể gặp các con, sống cùng các con bất cứ lúc nào bà T muốn. Thậm chí, từ khi ly hôn bà T vẫn thường xuyên ngủ tại căn hộ của ông cùng các con. Bà T hiện nay chưa có việc làm ổn định, thu nhập do cha mẹ và chị ruột cho hàng tháng, không có nhà riêng. Ông M hiện nay đang làm tại Công ty TNHH XNK Thủy Hải Sản Tấn Phát, thu nhập mỗi tháng 60.000.000 đồng. Ngoài ra, vào năm 2021 Trung Tâm Pháp Y Tâm Thần Khu Vực Tây Nam Bộ đã có kết luận giám định bà Hồ Minh T bị mất khả năng nhận thức và điều khiển hành vi. Do đó, ông M không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của bà T; ông vẫn có nguyện vọng được tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc các con Nguyễn Đức T, sinh năm: 2008; Nguyễn Thanh V, sinh năm 2012; Nguyễn Thanh N, sinh năm: 2015 và không yêu cầu bà T cấp dưỡng.
Tại Phiên tòa:
Bà T trình bày: Bà T vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện. Bà T cũng thừa nhận trước đây bà T có bị bệnh như Trung Tâm Pháp Y Tâm Thần Khu Vực Tây Nam Bộ đã giám định, nhưng bây giờ sức khỏe của bà đã hoàn toàn bình thường. Thu nhập của bà 10.000.000 đồng một tháng từ việc đi bán vé số và dạy thêm Tiếng Anh. Dù bà có thu nhập không bằng ông M nhưng bà dành hết thời gian và tình thương cho các con. Hiện tại, bà chưa có gia đình mới nhưng ông M đã có gia đình mới; nên ông M không thể toàn tâm, toàn ý cho các con được. Bà T khẳng định có nơi ở ổn định cho các con, vì bà được ba mẹ ruột cho một căn nhà để ở, nên việc bà T xin thay đổi quyền nuôi con là hoàn toàn phù hợp. Bà sẽ dạy các con phải yêu thương ông M và cam kết không cản trở ông M thăm nom, chăm sóc giáo dục con chung. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà.
Ông M trình bày: Từ khi ly hôn đến nay, ông vẫn thực hiện tốt việc chăm sóc và dạy dỗ các con chung. Các con ông đều đạt thành tích tốt trong học tập. Căn hộ ông và các con đang ở là tài sản riêng của ông. Công việc làm và thu nhập hàng tháng của ông luôn ổn định. Đặc biệt, ông M không hề cản trở việc bà T thăm nom chăm sóc con chung, vì bà T vẫn ở trong căn hộ của ông 360/365 ngày một năm. Đề nghị Hội đồng xét xử bác yêu cầu khởi kiện của bà T.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp phát biểu quan điểm về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán và Hội đồng xét xử như sau:
* Về tố tụng:
- Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán: Qua kiểm sát việc giải quyết vụ án từ khi thụ lý đến thời điểm này thấy rằng Thẩm phán đã chấp hành đúng quy định tại Điều 48 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015 trong quá trình giải quyết vụ án về thẩm quyền thụ lý vụ án, xác định đúng quan hệ tranh chấp; Tống đạt cho các đương sự đúng quy định quy định tại Điều 175 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015; Tiến hành phiên hòa giải đúng quy định tại Điều 208 Bộ luật tố tụng dân sự 2015; Thời hạn chuẩn bị xét xử đúng quy định tại Điều 203 Bộ luật tố tụng dân sự 2015; Quyết định đưa vụ án ra xét xử được thực hiện đúng theo quy định tại Điều 220 Bộ luật tố tụng dân sự 2015; Việc gửi Quyết định đưa vụ án ra xét xử và chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát nghiên cứu đảm bảo thời hạn theo quy định tại Khoản 2, Điều 220, Bộ luật tố tụng dân sự 2015.
- Về việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử, Thư ký tại phiên tòa: Tại phiên tòa hôm nay, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về phiên tòa sơ thẩm.
- Về chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn đã thực hiện đúng các quy định tại các Điều 70, 71 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015. Bị đơn chưa thực hiện đúng các quy định tại các Điều 70, 72 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015.
* Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn- bà Hồ Minh T về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và lời trình bày của đương sự tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm về vụ án, Hội đồng xét xử nhận định:
- Về tố tụng: Yêu cầu của bà T là quan hệ tranh chấp về Thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn; ông M cư trú tại quận C thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận C theo quy định tại khoản 3 Điều 28, Điều 35, Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
- Về nội dung: Yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con là yêu cầu chính đáng của bà T. Thể hiện tình cảm và trách nhiệm của người làm mẹ đối với con của mình. Để có căn cứ xem xét yêu cầu khởi kiện của bà T, Tòa án đã yêu cầu bà T và ông M cung cấp các tài liệu chứng cứ để chứng minh cho việc đảm bảo điều kiện chăm sóc giáo dục con chung.
Xét điều kiện nuôi con của bà T:
+ Về thu nhập:
Trong quá trình giải quyết vụ án bà T khai đang làm công việc smartpay, bán ổi, dạy tiếng Anh thu nhập ổn định mỗi tháng hơn 10.000.000 đồng. Tại Phiên tòa, bà T lại khai bà đi bán vé số và dạy thêm tiếng Anh với tổng thu nhập là 10.000.000 đồng. Tòa án đã yêu cầu bà T cung cấp chứng cứ về công việc, thu nhập nhưng bà T không cung cấp được mà chỉ trình bày và không cung cấp bất cứ tài liệu chứng cứ gì chứng minh cho lời trình bày của mình. Hội đồng xét xử nhận thấy bà T không nhất quán trong lời khai về công việc; tứ đó có thể nhận thấy rằng bà T có công việc không ổn định và không có thu nhập khoản ổn định.
+ Về nơi ở:
Bà T cho rằng bà có nơi ở ổn định là căn nhà được cha mẹ cho. Tòa án đã yêu cầu bà T cung cấp tài liệu chứng cứ về nơi ở ổn định nhưng bà T không cung cấp, mà chỉ trình bày bà được cha mẹ tặng cho nhà bằng lời nói chứ chưa sang tên chủ sở hữu cho bà.
Xét điều kiện nuôi con của ông M:
+ Về thu nhập: Ông M hiện đang làm nhân viên kinh doanh của Công ty TNHH XNK Thủy Hải Sản Tấn Phát, thu nhập mỗi tháng hơn 60.000.000 đồng. Ông M đã cung cấp cho Tòa bảng lương có xác nhận của Công ty TNHH XNK Thủy Hải Sản Tấn Phát.
+ Về nơi ở: Ông M có nơi ở ổn định là căn hộ B1 601 Chung cư Dream Home, Phường 14 quận Gò Vấp. Đây là tài sản riêng của ông M và bà T cũng thừa nhận.
Sau khi xem xét các điều kiện nuôi con của bà T và ông M, Hội đồng xét xử nhận định:
+ Về thu nhập: Ông M chứng minh được có công việc làm và thu nhập ổn định.
Bà T chỉ trình bày bằng lời nói, không cung cấp tài liệu chứng cứ chưng minh cho lời trình bày của mình.
+ Về nơi ở: Ông M chứng minh được nơi ở ổn định để cùng ở và chăm sóc các con. Bà T chỉ trình bày bằng lời nói, không cung cấp tài liệu chứng cứ chứng minh cho lời trình bày của mình.
+ Xét việc bà T cho rằng trẻ Nguyễn Đức T bị bạo hành và ông M cản trở thăm nom chăm sóc giáo dục các con chung của bà T và ông M:
Tòa án đã tiến hành thu thập chứng cứ và được UBND Phường B, quận C phúc đáp: “Ông M thực tế chăm sóc nuôi dưỡng các con Nguyễn Đức T, sinh năm: 2008; Nguyễn Thanh V, sinh năm 2012; Nguyễn Thanh N, sinh năm: 2015. Bà Hồ Minh T đã nhiều lần đến khu phố tổ hòa giải khu phố 2 và Công an phường, Ủy ban nhân dân Phường B để trình báo việc cháu Nguyễn Đức T bị bạo hành. Khu phố cùng tổ hòa giải đã hỗ trợ liên hệ để giúp đỡ bà Hồ Minh T. Bên cạnh đó, qua quá trình xác minh sự việc, Ủy ban nhân dân Phường B đã có buổi làm việc trực tiếp với ông Nguyễn Văn M, thì cháu Nguyễn Đức T không bị bạo hành, được biết bà Hồ Minh T có chìa khóa căn hộ số B1 601, thẻ từ thang máy chung cư, ông M cũng tạo mọi điều kiện để bà Hồ Minh T có thể gặp con và sống cùng con bất cứ lúc nào bà T muốn.” Tại phiên tòa, bà T cũng xác nhận bà T thường xuyên ở tại nhà của ông M. Vì muốn chăm sóc các con nên bà vẫn cư trú tại căn hộ của ông M 360/365 ngày/1 năm như ông M trình bày.
Từ các căn cứ trên, Hội đồng xét xử nhận thấy trẻ Nguyễn Đức T không bị bạo hành và không có việc ông M cản trở bà T thăm nom chăm sóc giáo dục con chung như bà T trình bày.
+ Về ý kiến của trẻ: Hiện nay các cháu Nguyễn Đức T, sinh năm: 2008; Nguyễn Thanh V, sinh năm 2012; Nguyễn Thanh N, sinh năm: 2015 đã trên 7 tuổi. Trong quá trình giải quyết vụ án các cháu đều có ghi lời khai nguyện vọng được ở với ông M.
Theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình thì việc thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn được Tòa án giải quyết khi có một trong các căn cứ:
“a, Cha mẹ thỏa thuận việc thay đổi người trực tiếp nuôi con phù hợp với lợi ích của con; b, Người trực tiếp nuôi con không còn đủ điều kiện trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng con”.
Hội đồng xét xử nhận thấy, bà T không có công việc ổn định, nơi ở không ổn định. Việc bà T cho rằng bà T đủ điều kiện lo cho các con nơi ở ổn định, có cuộc sống đầy đủ và tràn ngập tình yêu thương; đó chỉ là ý chí chủ quan của bà. Trên thực tế với mức thu nhập không ổn định từ việc bán vé số và dạy thêm tiếng Anh (3 học sinh, với tổng thu nhập từ việc dạy Tiếng Anh là 1.500.000 đồng/1 tháng) thì khó khăn cho việc đảm bảo cuộc sống của bà T và 3 con chung. Đồng thời, xét về mọi mặt thu nhập, nơi ở, quá trình chăm sóc các con, cho thấy ông M vẫn đang chăm sóc, giáo dục con tốt. Nên việc thay đổi môi trường học tập, sinh hoạt của các cháu Nguyễn Đức T, sinh năm: 2008; Nguyễn Thanh V, sinh năm 2012; Nguyễn Thanh N, sinh năm: 2015 tại thời điểm này là không cần thiết.
Vì vậy việc bà T yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con là không có căn cứ.
Hội đồng xét xử không có đủ căn cứ để chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà T.
- Về án phí: Bà Hồ Minh T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
- Áp dụng khoản 3 Điều 28, Điều 35, Điều 39, điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
- Áp dụng khoản 2 Điều 81; điểm b khoản 2 Điều 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;
- Áp dụng Luật Thi hành án dân sự năm 2008;
- Áp dụng Pháp lệnh về án phí, lệ phí Toà án có hiệu lực ngày 01/7/2009.
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Hồ Minh T về việc thay đổi các cháu Nguyễn Đức T, sinh năm: 2008; Nguyễn Thanh V, sinh năm: 2012; Nguyễn Thanh N, sinh năm: 2015 sang cho bà T là người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn.
2. Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Hồ Minh T phải chịu 300.000 (Ba trăm ngàn đồng), cấn trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 (Ba trăm ngàn đồng) đồng bà T đã nộp theo biên lai thu số: AA/2021/0048182 ngày 26/04/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự quận C. Bà T đã nộp xong án phí.
Trường hợp bản án, quyết định được Thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải Thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu Thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự. Đương sự có quyền yêu cầu Chi cục Thi hành án dân sự có thẩm quyền tổ chức thi hành án theo các Điều 7, 30, 31 và 32 của Luật thi hành án dân sự.
Các đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 1425/2022/HNGĐ-ST về tranh chấp thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn
Số hiệu: | 1425/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Gò Vấp - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 07/09/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về