TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HÀ TĨNH
BẢN ÁN 04/2021/HNGĐ-PT NGÀY 10/12/2021 VỀ TRANH CHẤP THAY ĐỔI NGƯỜI TRỰC TIẾP NUÔI CON SAU KHI LY HÔN
Trong ngày 10/12/2021, tại Hội trường xét xử - TAND tỉnh H xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 22/2021/TLPT-HNGĐ ngày 22/10/2021 về “Tranh chấp về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn ” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 16/2021/QĐXX-PT ngày 18/11/2021 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị Thái Thị T, sinh năm 1992 Nơi ĐKHKTT: Xóm 4, xã H, huyện H, tỉnh H Tạm trú tại: Số nhà 02, ngõ 35, đường H, phường T, thành phố H, tỉnh H (có mặt).
Bị đơn: Anh Võ Văn H, sinh năm 1986 Nơi ĐKHKTT: Xóm 1, xã H, huyện H, tỉnh H Tạm trú tại: Số nhà 01, ngõ 44, đường L, phường T, thành phố H, tỉnh H (có mặt).
Người làm chứng:
1. Ông Võ Văn T; Địa chỉ: Xóm 1, xã H, huyện H, tỉnh H (Vắng mặt).
2. Bà Trần Thị N; Địa chỉ: Xóm 1, xã H, huyện H, tỉnh H (Vắng mặt).
Người kháng cáo: anh Võ Văn H
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo Bản án sơ thẩm, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Trong đơn khởi kiện, bản tự khai, biên bản hòa giải trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chị Thái Thị T trình bày:
Chị và anh Võ Văn H đã được Tòa án nhân dân thành phố H ra Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự số 115/2019/QĐST-HNGĐ, ngày 25/11/2019. Về con chung chị Thái Thị T và anh Võ Văn H có hai con chung là cháu Võ Thảo M, sinh ngày 12/01/2014 và cháu Võ Văn K, sinh ngày 24/8/2016. Anh Võ Văn Hđược quyền trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục cả hai con, chị Thái Thị T không phải cấp dưỡng nuôi con chung. Chị T được quyền thăm non các con chung không ai được cản trở. Tuy nhiên, trên thực tế cháu Võ Thảo M đang sống cùng anh Võ Văn H và học tập tại thành phố H, còn cháu Võ Văn K hiện đang sinh sống cùng ông bà nội tại xã H, huyện H, tỉnh H. Sau khi ly hôn chị thường xuyên quan tâm đi lại thăm nom và mua sắm quần áo, đồ dùng cho các con. Hiện nay chị đã có chỗ ở, việc làm ổn định, thu nhập khoảng 10.000.000 đồng/tháng. Từ khi ly hôn đến nay anh H cản trở việc thăm nom con của chị.
Tại thời điểm ly hôn năm 2019, chị chưa có điều kiện để trực tiếp nuôi dưỡng hai con, kèm thêm sức ép từ anh H nên khiến chị phải đồng ý thỏa thuận để cho anh H nuôi hai con. Nay chị đã đã có việc làm, thu nhập và nơi ở, đủ điều kiện để nuôi dạy các con, đồng thời con cũng có nguyện vọng muốn được về ở với chị.
Với những lý do trên, chị Thái Thị T yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được quyền trực tiếp nuôi dưỡng hai con Võ Thảo M và Võ Văn K, không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con chung.
Tại bản tự khai, biên bản hòa giải trong quá trình giải quyết vụ án bị đơn anh Võ Văn H trình bày:
Theo Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự số 155/2019/QĐST-HNGĐ ngày 25/11/2019 của Tòa án nhân dân thành phố H, thì anh là người được quyền trực tiếp, nuôi dưỡng, giáo dục hai con chung Võ Thảo M, sinh ngày 12/01/2014 và cháu Võ Văn K, sinh ngày 24/8/2016, chị Thái Thị T không phải cấp dưỡng nuôi con. Hiện nay, cháu đầu Võ Thảo M ở với anh tại phường T, thành phố H, học lớp 2 Trường Tiểu học T, thành phố H; cháu thứ 2 Võ Văn K ở với ông bà nội ở huyện Hương Khê, tỉnh H từ khi cháu mới được 16 tháng tuổi, cứ khoảng 1 đến 2 tuần anh về thăm con một lần và chu cấp tiền mỗi tháng 2.000.000 đồng nhờ ông bà nội nuôi dưỡng cháu, khi cháu đủ tuổi đi học tiểu học anh sẽ đón cháu về sống với anh tại thành phố H. Anh hiện nay làm nghề tiếp thị nước khoáng Lavie, thu nhập mỗi tháng từ 10.000.000 đồng đến 14.000.000 đồng. Từ ngày vợ chồng ly hôn đến nay, anh H nuôi dưỡng các con khỏe mạnh bình thường và đủ điều kiện để nuôi dưỡng hai con. Nay chị Thái Thị T yêu cầu thay đổi nuôi hai con anh không nhất trí.
Với nội dung trên, tại Bản án số 08/2021/HNGĐ-ST ngày 15/9/2021 của Tòa án nhân dân thành phố H, tỉnh H đã quyết định:
Căn cứ vào khoản 3 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; các Điều 81; Điều 82; Điều 83; khoản 1, 2, 3 Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình; tiểu mục 1.1 khoản 1 mục II phần A Danh mục án phí, lệ phí Tòa án ban hành kèm theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội xử:
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Thái Thị T về việc “Thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn” Buộc anh Võ Văn H có nghĩa vụ giao con Võ Thảo M sinh ngày 12/01/2014 cho chị Thái Thị T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến khi con trưởng thành đủ 18 tuổi. Anh Võ Văn H tiếp tục chăm sóc nuôi dưỡng cháu Võ Văn K.
Anh Võ Văn H không phải đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung Võ Thảo M và có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên án phí và quyền kháng cáo.
Ngày 21/9/2021, bị đơn anh Võ Văn H kháng toàn bộ bản án dân sự sơ thẩm số 08/2021/HNGĐ-ST ngày 15 tháng 9 năm 2021 của Tòa án nhân dân thành phố H, tỉnh H. Đề nghị giao cho anh Võ Văn H được trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng giáo dục hai con chung.
Tại phiên tòa, nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện. Bị đơn vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo và nêu ý kiến nếu chị Thái Thị T cam đoan với tôi không đưa cháu Võ Thảo M ra khỏi thành phố H thì tôi nhất trí giao con Võ Thảo M cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng.
Ý kiến của vị đại diện Viện KSND tỉnh H như sau: Quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý, Thẩm phán, Thư ký thực hiện đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa đến trước khi nghị án, Hội đồng xét xử tuân thủ đúng quy định của pháp luật tố tụng. Quá trình tố tụng và tại phiên tòa, các đương sự chấp hành đúng pháp luật tố tụng dân sự đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm áp dụng khoản 1 Điều 308 BLTTDS không chấp nhận kháng cáo của bị đơn giữ nguyên bản án sơ thẩm số 08/2021/HNGĐ-ST ngày 15-9- 2021 của TAND thành phố H, tỉnh H.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được được thẩm tra công khai tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Anh Võ Văn H làm đơn kháng cáo trong thời hạn luật định nên được chấp nhận xem xét giải quyết.
[2] Về nội dung:
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai tại phiên tòa, xem xét nội dung kháng cáo của bị đơn, Hội đồng xét xử xác định như sau:
Xét về điều kiện nuôi con: Anh H và chị T đều có nơi ở ổn định, hiện chị T đang làm việc tại Công ty trách nhiệm hữu hạn tư vấn kiến trúc ở phường Tân Giang, thành phố H với mức lương hàng tháng là 10.000.000 đồn, anh H làm marketting cho nhà máy nước khoáng Lavie tại H với mức thu nhập từ 9 đến 12 triệu. Như vậy, anh H và chị T đều có đủ điều kiện để nuôi con.
Hiện nay, cháu thứ nhất là Võ Thảo M, sinh ngày 12/01/2014 đang được anh H trực tiếp nuôi dưỡng tại thành phố H còn cháu thứ hai là cháu Võ Văn K, sinh ngày 24/8/2016 đang được ông bà nội trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng tại xã H, huyện H tỉnh H, hàng tháng anh H phải gửi tiền về nhờ ông bà nội nuôi dưỡng con. Tại đơn trình bày nguyện vọng và biên bản lấy lời khai của cháu Võ Thảo M thì cháu có nguyện vọng được ở với mẹ. Mặt khác cháu Võ Thảo M là con gái đang đến tuổi dậy thì, nên cần sự chăm sóc, hướng dẫn tận tình từ người mẹ và cũng phù hợp với nguyện vọng của con. Vì vậy, để đảm bảo điều kiện chăm sóc, nuôi dưỡng và đảm bảo về độ tuổi, giới tính, phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của cháu Thảo My, quyền lợi mọi mặt của các con thì cần giao cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng con gái Võ Thảo M, sinh ngày 12/01/2014; Anh H vẫn tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc cháu Võ Văn K, sinh ngày 24/8/2016 là phù hợp với quy định của pháp luật.
Từ những lập luận trên, Hội đồng xét xử xét thấy rằng không có căn cứ để chấp nhận nội dung kháng cáo của bị đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm như đề nghị của đại diện Viện KSND tỉnh H là phù hợp.
[3] Về án phí: Bị đơn phải chịu án phí DSPT theo quy định do kháng cáo không được chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ Luật tố tụng dân sự Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn anh Võ Văn H.
Giữ nguyên Bản án số 08/2021/HNGĐ-ST ngày 15-9-2021 của Tòa án nhân dân thành phố H, tỉnh H.
Căn cứ vào khoản 3 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; các Điều 81; Điều 82; Điều 83; khoản 1, 2, 3 Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình; tiểu mục 1.1 khoản 1 mục II phần A Danh mục án phí, lệ phí Tòa án ban hành kèm theo Nghị quyết số:
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội xử:
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Thái Thị T về việc “Thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn”
1. Buộc anh Võ Văn Hcó nghĩa vụ giao con Võ Thảo M sinh ngày 12/01/2014 cho chị Thái Thị T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến khi con đủ 18 tuổi. Anh Võ Văn Htiếp tục chăm sóc nuôi dưỡng cháu Võ Văn K đến khi con đủ 18 tuổi.
Chị Thái Thị T và Anh Võ Văn H không phải đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung và đều có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở.
2. Về án phí:
- Án phí sơ thẩm:
Chị Thái Thị T tự nguyện chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền 300.000 đồng, tiền tạm ứng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm mà chị T đã nộp theo biên lai thu tiền số AA/2016/0000949 ngày 09 tháng 7 năm 2021 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố H, tỉnh H - Án phí phúc thẩm:
Anh Võ Văn Hphải chịu 300.000 đồng án phí DSPT (anh H đã nộp đủ theo Biên lai thu tiền số 0001006 ngày 07/10/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố H) nay không phải nộp nữa.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.
Bản án 04/2021/HNGĐ-PT về tranh chấp thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn
Số hiệu: | 04/2021/HNGĐ-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hà Tĩnh |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 10/12/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về