TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 603/2023/DS-PT NGÀY 30/08/2023 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT, YÊU CẦU HỦY QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH CÓ LIÊN QUAN
Ngày 30 tháng 8 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân Cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 250/2023/TLPT- DS ngày 08 tháng 5 năm 2023 về việc “tranh chấp quyền sử dụng đất, yêu cầu hủy Quyết định hành chính có liên quan”; do Bản án dân sự sơ thẩm số 08/2023/DS-ST ngày 27 tháng 02 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa án ra xét xử số 1824/2023/QĐ-PT ngày 20 tháng 7 năm 2023 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn:
1. Ông Võ Văn Đ, sinh năm 1962 (có mặt);
2. Bà Võ Thị N, sinh năm 1963 (vắng mặt);
Người đại diện hợp pháp của bà Võ Thị N: ông Võ Văn Đ, sinh năm 1962; (Được uỷ quyền theo văn bản uỷ quyền ngày 06/4/2018 và 10/4/2018) Cùng cư trú tại: 1 L, phường H, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Luật sư Nguyễn Tấn Đ1, thuộc Đoàn luật sư Thành phố H; Địa chỉ: Công ty L3, tầng 1, số B N, phường Đ, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt)
- Bị đơn:
1. Ông Võ Thành Đ2, sinh năm 1974 (vắng mặt);
2. Bà Lê Thị Kim L, sinh năm 1976 (vắng mặt);
Cùng cư trú tại: số B, ấp V, xã M, huyện Đ, tỉnh Long An.
Người đại diện hợp pháp của ông Đ2 và bà L: Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1960; Cư trú tại: số D, tổ C, khu C, thị trấn C, huyện C, tỉnh Long An. (Được uỷ quyền theo văn bản uỷ quyền ngày 21/10/2019 – có mặt)
3. Bà Nguyễn Thị N1, sinh năm 1935 (chết ngày 22/7/2023);
Người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của bà Nguyễn Thị N1:
3.1 Bà Võ Thị M, sinh năm 1957. Địa chỉ: A, L, phường H, Quận T, Thành phố Hồ Chí Minh (có đơn xin xét xử vắng mặt);
3.2 Võ Thị S, sinh năm 1958 (vắng mặt);
Người đại diện hợp pháp của bà Võ Thị S: bà Võ Thị Yến N2, sinh năm 1994. Địa chỉ: ấp V, xã M, huyện Đ, tỉnh Long An (có mặt);
3.3 Bà Võ Thị M1, sinh năm 1959 (đã chết 14/4/2021) Người kế thừa quyền và nghĩa vụ của bà M1: Bà Đoàn Thị Ngọc K, sinh 1984. Địa chỉ: A ấp B, xã C, huyện G, Bến Tre (có đơn xin xét xử vắng mặt).
3.4 Bà Võ Thị N, sinh năm 1963. Địa chỉ: 1 L, phường H, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt);
3.5 Ông Võ Thành Đ2, sinh năm 1964.
Người đại diện hợp pháp của ông Võ Thành Đ2: bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1960. Địa chỉ: số D, tổ C, khu C, thị trấn C, huyện C, tỉnh Long An (có mặt);
3.6 Bà Võ Thị C, sinh năm 1968. Địa chỉ: số B, Phan Văn Đ3, xã B, huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh (có đơn xin xét xử vắng mặt);
3.7 Ông Võ Thành N3, sinh năm 1976. Địa chỉ: 82/14, Lê Văn Q, phường B, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh (có đơn xin xét xử vắng mặt);
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: Luật sư Nguyễn Thị C1, Văn phòng Luật sư Nguyễn Thị C1, Đoàn Luật sư tỉnh L. Địa chỉ: Số D, khu C, thị trấn C, tỉnh Long An (có mặt).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Võ Thị Yến N2, sinh năm 1994 (có mặt);
2. Ông Võ Hoàng A, sinh năm 2000 (vắng mặt);
Cùng cư trú tại: số B, ấp V, xã M, huyện Đ, tỉnh Long An.
3. Bà Võ Thị S, sinh năm 1958 (vắng mặt);
Người đại diện hợp pháp của bà S: bà Võ Thị Yến N2, sinh năm 1994; (Được uỷ quyền theo văn bản uỷ quyền ngày 19/12/2022 – có mặt) Cùng cư trú tại: ấp V, xã M, huyện Đ, tỉnh Long An.
4. Bà Võ Thị C, sinh năm 1968 (xin xét xử vắng mặt);
5. Ông Võ Đông T, sinh năm 1997 (vắng mặt);
6. Võ Thành Đ4, sinh năm 2008 (vắng mặt);
Người đại diện theo uỷ quyền của Võ Đông T và đại diện theo pháp luật của Võ Thành Đ4: bà Võ Thị C, sinh năm 1968; (Được uỷ quyền theo văn bản uỷ quyền ngày 17/02/2023 - xin xét xử vắng mặt).
Cùng cư trú tại: số B, Phan Văn Đ3, xã B, huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh.
7. Ủy ban nhân dân huyện Đ, tỉnh Long An (vắng mặt);
8. Ủy ban nhân dân xã M, huyện Đ, tỉnh Long An (xin xét xử vắng mặt).
- Người kháng cáo: nguyên đơn ông Võ Văn Đ, bà Võ Thị N .
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo nguyên đơn trình bày: Năm 1989, ông Đ và vợ là bà Võ Thị N được Ủy ban nhân dân xã M, huyện Đ, tỉnh Long An giao sử dụng phần đất diện tích khoảng 180m2 tại xã M, huyện Đ. Năm 1990, ông bà xây dựng nhà ở kiên cố diện tích khoảng 06m x 30m trên phần đất này. Nguồn gốc đất trước năm 1989 là đất thuộc Hợp tác xã mua bán xã M quản lý, sau đó Hợp tác xã giải thể nên tạm giao cho ông bà sử dụng.
Năm 1997, do cuộc sống khó khăn, ông bà đến Thành phố Hồ Chí Minh làm ăn nên ông bà giao căn nhà nêu trên cho mẹ ruột của bà N là bà Nguyễn Thị N1 quản lý, sử dụng và giữ gìn. Giữa ông bà và bà N1 có lập văn bản thỏa thuận về việc giao căn nhà vào ngày 20/6/1997.
Từ năm 1997 đến năm 2005, căn nhà của ông bà chỉ có bà N1 quản lý, sử dụng thay ông bà. Sau đó, ông bà đồng ý cho vợ chồng em vợ là ông Võ Thành Đ2 và vợ là bà Lê Thị Kim L vào ở căn nhà nói trên vì vợ chồng ông Đ2 không có nhà ở và cũng để tiện chăm sóc cho bà N1. Đến đầu năm 2017, ông bà nghe được thông tin ông Đ2 đã nộp số tiền 25.000.000 đồng cho Phòng Tài chính huyện Đ để xin được giao khu đất có căn nhà của ông bà.
Ngày 08/01/2017, ông bà về gặp ông Đ2 để làm rõ sự việc, ông Đ2 thừa nhận đã nộp số tiền trên để xin được giao phần đất 167,3m2 có căn nhà của ông bà. Ông bà thương lượng với ông Đ2 để trả lại ông Đ2 25.000.000 đồng xem như ông bà nộp số tiền này, ông Đ2 đồng ý. Trên cơ sở đó, ông bà và ông Đ2 lập giấy thỏa thuận ngày 08/01/2017 ghi nhận nội dung thỏa thuận, văn bản được Ủy ban nhân dân xã M xác nhận.
Sau đó, ông Đ2 lại không đồng ý để ông bà liên hệ với Ủy ban nhân dân huyện Đ làm thủ tục xin giao đất và nộp số tiền còn lại để đăng ký quyền sử dụng đất đối với diện tích 167,3m2 nêu trên. Ông bà có gửi văn bản đến Ủy ban nhân dân huyện Đ đề nghị xem xét giải quyết, nhưng không được giải quyết với lý do Ủy ban nhân dân huyện Đ ra Quyết định số 165/QĐ.UBND ngày 29/3/2006 về việc giao đất bán đấu giá Hợp tác xã Mỹ Thạnh Tây đối với phần đất có diện tích 167,3m2 cho ông Đ2. Ông Đ2 chỉ là người ở nhờ không có quyền đối với thửa đất và tài sản trên đất. Khi Ủy ban nhân dân huyện Đ có chủ trương bán đấu giá khu đất thì ông Đ2 bà N1 không thông báo cho ông bà biết. Do vậy, ông Đ bà N yêu cầu:
- Hủy Quyết định số 165/QĐ-UBND ngày 29/3/2006 của Ủy ban nhân dân huyện Đ về việc giao đất bán đấu giá Hợp tác xã Mỹ Thạnh T1 cho ông Võ Thành Đ2. - Yêu cầu bà Nguyễn Thị N1, ông Võ Thành Đ2, bà Lê Thị Kim L trả lại cho ông Đ, bà Ngô thửa đất số 1261, tờ bản đồ số 08 và căn nhà trên đất có chiều ngang khoảng 06m, chiều dài khoảng 30m, kết cấu vách tường, mái tole; nhà đất tọa lạc tại xã M, huyện Đ, tỉnh Long An. Ngày 23/11/2022, ông Đ, bà N đã rút yêu cầu khởi kiện yêu cầu bà N1, ông Đ2 và bà L hoàn trả căn nhà trên thửa đất số 1261, tờ bản đồ số 08, tọa lạc tại xã M, huyện Đ, tỉnh Long An theo diện tích đất thực tế đang sử dụng, Yêu cầu ông Đ2 và bà L xây dựng thì tự tháo dỡ, để cho ông Đ bà N được đăng ký quyền sử dụng đất; ông Đ bà N sẽ thanh toán cho ông Đ2 bà L số tiền mà ông Đ2 và bà L đã nộp cho cơ quan nhà nước trong quá trình bán đấu giá quyền sử dụng đất.
Bị đơn ông Võ Thành Đ2 và bà Lê Thị Kim L cũng như người đại diện hợp pháp của bị đơn, bà Nguyễn Thị H trình bày:
Nguồn gốc phần diện tích đất mà ông Võ Văn Đ và bà Võ Thị N đang tranh chấp với vợ chồng ông Đ2 bà L tại thửa đất số 1261, tờ bản đồ số 8 là của Hợp tác xã M2; trước năm 1993, phần diện tích đất này do vợ chồng ông Đ, bà N sử dụng xây dựng nhà ở. Năm 1997, ông Đ bán nhà cho bà N1 nên ông Đ2, bà L về chung sống với bà N1 để chăm sóc bà N4 từ đó đến nay. Khi bán nhà, hai bên có thỏa thuận nhưng không làm hợp đồng.
Trong quá trình sinh sống, căn nhà cũ đã hư hỏng, ông Đ2 bà N đã san lấp nền nhà, sửa chữa nhà nhiều lần và xây dựng lại nhà mới như hiện nay vào năm 2019.
Khi Nhà nước có chủ trương bán đấu giá nền nhà, ông Đ2 và bà L đã nộp tiền mua đấu giá: năm 2005 nộp 5.000.000 đồng; năm 2006 nộp 20.000.000 đồng; năm 2017 nộp tiếp 312.000.000 đồng. Ngày 29/3/2006, Ủy ban nhân dân huyện Đ đã ra Quyết định số 165/QĐ-UBND về việc giao đất bán đấu giá Hợp tác xã Mỹ Thạnh T1 cho ông Võ Thành Đ2 nhưng chưa cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Hiện ông Đ2, bà L cùng bà N1 và các con của ông Đ2 bà L đang sinh sống trên phần diện tích đất mua đấu giá.
Đối với Giấy thỏa thuận ngày 20/6/1997 và ngày 08/01/2017 là không phải chữ ký của bà N1 và ông Đ2. Ông Đ2 không có nhận số tiền 25.000.000 đồng như ông Đ trình bày.
Ông Đ2, bà L không đồng ý yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Trong trường hợp theo quy định của pháp luật phải hủy Quyết định số 165/QĐ-UBND, ông Đ2 yêu cầu được tiếp tục ở lại trên đất vì gia đình ông Đ2 không có nhà đất để ở và đề nghị Tòa án giải quyết hậu quả theo định giá của Nhà nước.
Bị đơn bà Nguyễn Thị N1 do bà Võ Thị C đại diện, đồng thời bà C là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và đại diện cho Võ Đông T, Võ Thành Đ4 trình bày:
Bà C là con ruột của bà N1, còn Võ Đông T và Võ Thành Đ4 là con ruột của bà C; bà C và T, Đ4 có hộ khẩu cùng với bà N1, ông Đ2 và bà L nhưng hiện nay bà C và hai con chuyển về Thành phố Hồ Chí Minh sinh sống.
Nguồn gốc phần diện tích đất các bên tranh chấp trước đây là của Hợp tác xã Mỹ Thạnh T1, sau khi Hợp tác xã giải thể, bà Võ Thị M1 là chị ruột của bà C là nhân viên hợp tác xã có xin xây dựng căn nhà tạm trên đất để ở; việc xây dựng nhà tạm không thể hiện bằng văn bản gì. Sau đó, bà M1 bán lại căn nhà này cho bà C cũng là nhân viên hợp tác xã với giá 02 chỉ vàng; bà C sống trong căn nhà này từ năm 1990 đến tháng 8/1992; sau đó, bà C đã bán lại căn nhà này cho ông Đ với giá 02 chỉ vàng nhưng do thấy hoàn cảnh ông Đ khó khăn nên bà C không lấy vàng mà cho ông Đ luôn. Ông Đ hoàn toàn không có xây dựng nhà trên đất. Việc mua bán nhà giữa bà M1 và bà C, giữa bà C và ông Đ không có lập văn bản, giấy tờ gì và hiện tại bà M1 đã chết. Năm 1997, ông Đ đã bán căn nhà lại cho bà N1 với giá 2,5 lượng vàng, bà N1 trả vàng cho ông Đ nhằm hỗ trợ cho ông Đ mua nhà tạo lập chỗ ở mới tại Thành phố Hồ Chí Minh. Bà N1 hoàn toàn không ký tên vào giấy thỏa thuận ngày 20/6/1997, trong Giấy thỏa thuận ghi tên là Nguyễn Thị N5 trong khi mẹ bà tên là Nguyễn Thị N1. Do mẹ bà không có bất kỳ bút tích gì nên bà không yêu cầu giám định chữ ký bà N1 vì không thể giám định được.
Nhà tranh vách đất ông Đ đã bán cho bà N1 vào năm 1997 đã hư mục từ lâu, bà C không tranh chấp gì đối với căn nhà cũ đã bán cho ông Đ; vợ chồng ông Đ2 đã xây dựng nhà mới trên đất như hiện nay. Hàng năm, ông Đ, bà N đều về đám giỗ tại nhà này, biết việc ông Đ2 xây dựng, sửa chữa nhà trên đất nhưng không có ý kiến hay tranh chấp gì. Đề nghị Tòa án bác yêu cầu khởi kiện của ông Đ, bà N. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Võ Thị Yến N2, đồng thời bà N2 đại diện cho bà Võ Thị S trình bày: Bà Võ Thị Yến N2 là con ruột của ông Đ2, bà L hiện nay đang sống cùng nhà với ông Đ2 và bà L, còn bà S là chị ruột của bà N và ông Đ2; bà Yến N2 và bà S không có tranh chấp gì trong vụ án này và không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn.
Năm 2017, bà S xây dựng nhà sống riêng và tách hộ khẩu từ ngày 17/02/2017.
Ông Võ Hoàng A trình bày: Ông là con ruột của ông Đ2 và bà L, hiện ông đang du học tại Hàn Quốc và thỉnh thoảng về Việt Nam, ông vẫn sống cùng nhà với ông Đ2 bà L. Trước yêu cầu khởi kiện của ông Đ và bà N, ông không đồng ý và xin vắng mặt trong suốt quá trình Toà án giải quyết vụ án. Đối với các văn bản tố tụng của Toà án, ông yêu cầu Toà án tống đạt cho cha ruột ông là ông Võ Thành Đ2. Ủy ban nhân dân huyện Đ trình bày tại văn bản số 1877/UBND-TNMT ngày 09 tháng 6 năm 2020, văn bản số 3027/UBND-TNMT ngày 05 tháng 12 năm 2022 và văn bản số 3345/UBND-TNMT ngày 30 tháng 12 năm 2022:
Nguồn gốc thửa đất số 1261, tờ bản đồ số 8 là đất công do Nhà nước quản lý của xã M; sau khi Hợp tác xã Mỹ Thạnh T1 giải thể thì các hộ như ông Lê Thanh C2, Võ Văn Đ, Tiên Văn L1, Bùi Tất X, Hoàng Văn Đ5 sử dụng. Năm 1990, vợ chồng ông Đ và bà N sử dụng đất cất nhà, đến năm 1997 để lại nhà cho mẹ là bà Nguyễn Thị N1 sử dụng. Vợ chồng ông Đ2, bà L có đến sống chung với bà N1 và có sửa lại nhà và sử dụng đến nay.
Việc ông Phan Văn P, Võ Văn L2 xác nhận: “Năm 1989, UBND xã M cấp cho ông Đ phần đất diện tích 180m2 để xây dựng nhà ở” là không có cơ sở pháp lý. Theo hồ sơ địa chính thể hiện đất công. Mặt khác, Ủy ban nhân dân xã M không có thẩm quyền giao đất. Do đó, Ủy ban nhân dân huyện Đ tổ chức bán đấu giá đất công là đúng quy định của pháp luật.
Thời điểm ban hành Quyết định số 165/QĐ-UBND ngày 29/3/2006 của Ủy ban nhân dân huyện Đ về việc bán đấu giá Hợp tác xã Mỹ Thạnh Tây thì trên đất có nhà của ông Võ Thành Đ2 đã sinh sống ổn định từ năm 1997. Việc bán đấu giá không có tài sản của ông Võ Văn Đ và bà Võ Thị Ngô . Ông Võ Thành Đ2 đã trúng đấu giá quyền sử dụng đất từ năm 2005 và đã được Ủy ban nhân dân huyện Đ ban hành Quyết định giao đất cho người trúng đấu giá tại Quyết định số 165/QĐ-UBND ngày 29/3/2006.
Theo Quyết định số 165/QĐ-UBND ngày 29/3/2006 thì ông Đ2 được giao diện tích đất là 167,3m2, tuy nhiên theo kết quả đo vẽ tại Mảnh trích đo địa chính số 619-2019 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại huyện Đ ngày 19/4/2019, duyệt ngày 25/4/2019 xác định thửa đất số 1261, tờ bản đồ số 8, diện tích 205m2 thì việc tăng thêm diện tích là do lấn thêm đất do Nhà nước quản lý, chiều ngang đo thủ công bằng thước thép nên không chính xác.
Trong trường hợp có căn cứ chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thì Toà án có thể sử dụng diện tích đất đo thực tế để xem xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và khi Uỷ ban nhân dân huyện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì người sử dụng đất phải nộp tiền sử dụng đối với phần đất chênh lệch theo quy định của pháp luật về đất đai.
Ủy ban nhân dân xã M trình bày tại Văn bản số 1120/UBND-ĐC ngày 28 tháng 9 năm 2022, văn bản số 71/UBND ngày 23 tháng 12 năm 2022 có nội dung về nguồn gốc phần diện tích đất tranh chấp như Ủy ban nhân dân Huyện Đ đã trình bày.
Đối với Giấy thoả thuận đã được Ủy ban nhân dân xã M ký xác nhận ngày 08/01/2017 là do ông Võ Văn Đ, bà Võ Thị N, ông Võ Thành Đ2 có đến tại bộ phận tiếp nhận và trả kết quả hành chính xã M gặp ông Phan Quốc T2, công chức tư pháp - hộ tịch ký giấy xác nhận vào giấy thoả thuận trước mặt ông T2 và ông T2 tham mưu cho Ủy ban nhân dân xã K xác nhận chữ ký cho ông Đ, lúc đó ông Nguyễn Văn T3, Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân ký xác nhận vào giấy thoả thuận, không có bà L. Hồ sơ hiện Ủy ban nhân dân xã M không còn lưu giữ.
Việc tổ chức bán đấu giá và nộp tiền vào ngân sách Nhà nước là đúng theo quy định của pháp luật.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 08/2023/DS-ST ngày 27 tháng 02 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An đã tuyên xử:
1. Đình chỉ yêu cầu khởi kiện tranh chấp căn nhà trên thửa đất số 1261 tờ bản đồ số 8 của ông Võ Văn Đ và bà Võ Thị N yêu cầu trả lại căn nhà cũ đối với bà Nguyễn Thị N1, ông Võ Thành Đ2 và bà Lê Thị Kim L. 2. Bác yêu cầu khởi kiện tranh chấp quyền sử dụng thửa đất số 1261 tờ bản đồ số 8 của ông Võ Văn Đ và Võ Thị N yêu cầu ông Võ Thành Đ2 và bà Lê Thị Kim L tháo dỡ nhà, trả lại quyền sử dụng 167,3m2 theo Quyết định số 165/QĐ.UBND ngày 29/3/2006, diện tích đo đạc thực tế được các bên thống nhất diện tích tranh chấp là 184m2 theo Mảnh trích đo địa chính số 1446-2022 ngày 06/12/2022 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại huyện Đ. 3. Bác yêu cầu khởi kiện của ông Võ Văn Đ và Võ Thị N yêu cầu hủy Quyết định số 165/QĐ-UBND ngày 29/3/2006 của Ủy ban nhân dân huyện Đ về việc giao đất bán đấu giá Hợp tác xã Mỹ Thạnh T1 cho ông Võ Thành Đ2. Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về phần án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 09/3/2023, ông Đ, bà N kháng cáo toàn bộ nội dung vụ án với lý do bản án sơ thẩm có nội dung thiếu khách quan, không đúng với bản chất của sự việc nên làm ảnh hưởng đến quyền lợi của ông, bà.
Tại phiên tòa phúc thẩm, ông Đ, bà N vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, yêu cầu sửa án sơ thẩm theo hướng chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Đ và bà N. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn Luật sư Nguyễn Tấn Đ1 trình bày: Về nguồn gốc đất tranh chấp do Ủy ban nhân dân xã M giao cho ông Đ xây dựng nhà để ở từ năm 1989 và năm 1997, ông Đ, bà N giao lại cho bà N1 quản lý, sử dụng được thể hiện bằng văn bản thoả thuận ngày 20/6/1997. Bà N1 chỉ có quyền ở, trông coi nhà và bà N1 có ký tên vào Giấy thỏa thuận, mặc dù ghi là chữ “nhộn”.
Ông Đ2 có ký vào Giấy thỏa thuận ngày 08/1/2017 nên Giấy thỏa thuận này có giá trị pháp lý, bà N1 không có căn cứ chứng minh ông Đ đã bán nhà cho bà N1; trong trường hợp, bà N1 là người mua nhà thì quyền mua đấu giá thuộc về bà N1 chứ không phải ông Đ2. Quyết định số 165/QĐ-UBND không đảm bảo về hình thức, trình tự thủ tục bán đấu giá nhưng không được Tòa án cấp sơ thẩm đánh giá tính hợp pháp của quyết định. Từ các căn cứ trên, ông Đ là người được sử dụng đất nên đề nghị Hội đồng xét xử sửa án sơ thẩm, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn luật sư Nguyễn Thị C1 trình bày: phía nguyên đơn trình bày không có căn cứ và không đúng thực tế vì đất là do Nhà nước quản lý, bà N1 không ký tên vào Giấy thỏa thuận năm 1997, ông Đ2 cũng không ký vào Giấy thỏa thuận ngày 08/1/2017 và thủ tục xác nhận chữ ký của ông Đ2 không phù hợp với qui định của pháp luật nên đề nghị Hội đồng xét xử bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, giữ y bản án sơ thẩm.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án:
- Về việc chấp hành pháp luật tố tụng trong giai đoạn phúc thẩm: Quá trình tiến hành tố tụng của cấp phúc thẩm người tiến hành tố tụng, các đương sự đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ Luật Tố tụng dân sự năm 2015.
- Về yêu cầu kháng cáo của ông Đ: Đơn kháng cáo của ông Đ, bà N làm trong thời hạn luật định nên được chấp nhận xem xét theo trình tự xét xử phúc thẩm.
- Về nội dung: yêu cầu kháng cáo của ông Đ6, bà N không có căn cứ nên đề nghị bác toàn bộ yêu cầu kháng cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận và sau khi nghe ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Đơn kháng cáo của ông Võ Văn Đ, bà Võ Thị N làm trong hạn luật định, hợp lệ theo qui định tại Điều 273 của Bộ Luật tố tụng dân sự năm 2015 nên được xem xét theo trình tự xét xử phúc thẩm.
[1.2] Bà Võ Thị M, bà Võ Thị C, ông Võ Thành N3, bà Đoàn Thị Ngọc K1, ông Võ Hoàng A, Ủy ban nhân dân huyện Đ, Ủy ban nhân dân xã M, huyện Đ có yêu cầu xét xử vắng mặt nên Hội đồng tiến hành xét xử vắng mặt theo quy định tại Điều 296 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 là có căn cứ.
[2] Xét nội dung kháng cáo của ông Võ Văn Đ và bà Võ Thị N, Hội đồng xét xử nhận thấy:
[2.1] Đối với yêu cầu hủy Quyết định số 165/QĐ-UBND ngày 29/3/2006 của Ủy ban nhân dân huyện Đ: [2.1.1] Về nguồn gốc đất:
[2.1.1.1] Căn cứ việc trình bày của các đương sự trong vụ án và tại Công văn số 1877/UBND-TNMT ngày 09/6/2020 của Ủy ban nhân dân huyện Đ thì có căn cứ xác định thửa đất 1261, tờ bản đồ số 8, tọa lạc tại xã M, huyện Đ có nguồn gốc của Hợp tác xã mua bán Mỹ Thạnh T1 sử dụng; sau đó, Hợp tác xã giải thể thì Ủy ban nhân dân xã M đăng ký tại Sổ Mục kê của Ủy ban nhân dân xã M (BL49) có xác nhận của Ủy ban nhân dân huyện Đ.
[2.1.1.2] Ông Đ cho rằng thửa đất 1261 tờ bản đồ số 8 do Ủy ban nhân dân xã M cấp cho ông Đ nhưng ông Đ không cung cấp được chứng cứ cho việc trình bày của mình; ông Đ có yêu cầu các ông Phan Văn P1, ông Võ Văn L2, ông Trần Văn S1, Trần Văn Đ7, Nguyễn Văn N6, Phùng Văn H1, Trần Văn C3 và Võ Văn T4 mà ông Đ cho rằng họ là những người từng công tác tại Ủy ban nhân xã M xác nhận việc ông được cấp đất nhưng những người làm chứng này không cung cấp được chứng cứ chứng minh cho việc trình bày của mình.
[2.1.1.3] Phía bà C3 là đại diện cho bà N1 (khi bà N1 còn sống) và là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án cũng trình bày phần đất tranh chấp do bà Võ Thị M1 là chị bà C3 được Ủy ban nhân dân xã M cấp và xây nhà ở; sau bán cho bà C3 và bà C3 cho ông Đ ở; sau năm 1997, ông Đ bán nhà cho bà N1 2,5 lượng lượng vàng nhưng bà C3 cũng không có chứng cứ để chứng minh nên ý kiến này không được chấp nhận.
[2.1.1.4] Mặt khác, theo quy định của pháp luật thì Ủy ban nhân dân xã cũng không có thẩm quyền cấp đất nên có căn cứ xác định quyền sử dụng đất thửa 1261 tờ bản đồ số 8, tọa lạc tại xã M, huyện Đ cho đến khi bán đấu giá cho ông Võ Thành Đ2 vẫn thuộc quyền quản lý của Ủy ban nhân dân xã M.
[2.1.2] Về tài sản gắn liền với đất:
[2.1.2.1] Ông Võ Văn Đ cung cấp Giấy thỏa thuận ngày 20/6/1997, có nội dung như sau: Ông Đ, bà N giao căn nhà tại ấp V xã M, huyện Đ, tỉnh Long An (các đương sự đều thừa nhận chính là căn nhà trên diện tích đất thuộc thửa 1261 tờ bản đồ số 8, tọa lạc tại xã M, huyện Đ mà hiện nay các bên đang tranh chấp) cho bà N1 quản lý với nội dung thỏa thuận: “vì cuộc sống nên hai vợ chồng chúng tôi đi thành phố làm ăn nên vợ chồng tôi để lại căn nhà trên cho mẹ chúng tôi ở và giữ gìn dùm cho vợ chồng tôi không có quyền sang nhượng, hoặc mua bán tặng cho người khác, kể cả anh chị em ruột trong nhà. Mẹ chúng tôi muốn việc gì căn nhà nói trên phải bàn bạc với vợ chồng chúng tôi, phải được vợ chồng chúng tôi thống nhất mới thực hiện được…”. Phía dưới Giấy thỏa thuận này ghi con Võ Văn điệp, Võ Thị N và “mẹ chúng tôi” là bà “Nguyễn Thị N5” và chữ ký cũng là chữ “nhộn” chứ không phải chữ “Nhuộm” nhưng ông Đ trình bày đây chỉ sự nhầm lẫn chứ không phải là bà N5 nào khác.
[2.1.2.2] Tại tòa án cấp sơ thẩm, bà C3 là đại diện cho bà N1 không thừa nhận nội dung này nhưng không yêu cầu giám định chữ ký của bà N1 vì cho rằng bà N1 không có bút tích gì để giám định và nay bà N1 đã chết nên việc giám định cũng không thể thực hiện được.
[2.1.2.3] Hội đồng xét xử xét thấy, dù bà N1 có thỏa thuận nội dung này hay không thì thực tế có việc ông Đ, bà N giao nhà cho bà N1 quản lý và sử dụng từ năm 1997, sau đó ông Đ2 và bà L, bà S2 về sống chung với bà N1.
[2.1.2.4] Theo ông Đ thì nội dung Giấy thỏa thuận ngày 20/6/1997 thỏa thuận: bà N1 muốn làm gì đối với căn nhà thì phải bàn bạc với vợ chồng ông Đ, bà N và phải được ông Đ, bà N thống nhất mới thực hiện được. Như vậy, sau khi bà N1 về sinh sống tại căn nhà của ông Đ, bà N thì gia đình ông Đ2, bà L, bà S2 cũng về sống chung với bà N1 cho đến nay nhưng ông Đ, bà N không phản đối và thừa nhận ông bà đã đồng ý cho ông Đ2, bà L ở căn nhà chung với bà N1.
[2.1.2.5] Ông Đ thừa nhận căn nhà ông giao cho bà N1 chỉ là nhà tranh vách đất đã bị hư hoại theo thời gian và ông Đ2, bà L đã nhiều lần sửa chữa và sau cùng đã làm mới hoàn toàn; trong khi, ông Đ và bà N thường xuyên về thăm mẹ là bà N1, biết việc căn nhà được xây dựng lại mới hoàn toàn nhưng không phản đối; điều này có nghĩa là ông Đ, bà N đã đồng ý để ông Đ2, bà L xây dựng lại nhà và thừa nhận tiền sửa chữa nhà và xây dựng lại nhà là hoàn toàn của ông Đ2, bà L bỏ ra không phải tiền của ông Đ, bà N. Do vậy, có căn cứ xác định căn nhà hiện nay trên thửa đất số 1261 là tài sản của ông Đ2, bà L tạo dựng không phải của ông Đ, bà N. Ông Đ, bà N cũng không cư trú trên thửa đất này từ năm 1997.
[2.1.3] Về điều kiện được mua đấu giá đất:
[2.1.3.1] Theo Báo cáo số 506/BC.UBND ngày 22/10/2017 của Ủy ban nhân dân phường M thì việc bán đấu giá đất có điều kiện là bán đấu giá cho người thực tế đang có nhà trên đất; Phòng Tài Chánh cùng Ủy ban nhân dân xã xác định giá đất và yêu cầu người sử dụng đất nộp tiền sử dụng đất; ông Đ2, bà L có tài sản trên đất, là người trực tiếp sử dụng đất từ năm 1997 đến nay nên đủ điều kiện được mua đấu giá và đã nộp đủ 337.000.000 đồng tiền mua đấu giá.
[2.1.3.2] Năm 2005, Ủy ban nhân dân huyện Đ có chủ trương bán đấu giá đất; việc bán đấu giá không chỉ cho một mình ông Đ2 mà chủ trương bán đấu giá đất công cho cả những người đang sử dụng phần đất của Hợp tác xã và trên đất có tài sản của người đang sử dụng đất nhưng ông Đ, bà N không có ý kiến gì mà vẫn để cho ông Đ2, bà L xây dựng lại nhà mới hoàn toàn.
[2.1.3.3] Ngày 29/3/2006, Ủy ban nhân dân huyện Đ đã ban hành Quyết định số 165/QĐ.UBND về việc giao đất bán đấu giá Hợp tác xã – xã M cho ông Võ Thành Đ2 là đúng pháp luật, đúng chủ trương bán đấu giá của Ủy ban nhân dân huyện Đ nên không có căn cứ để chấp nhận yêu cầu hủy Quyết định số 165 của ông Đ, bà N.
[2.2] Đối với yêu cầu tranh chấp quyền sử dụng thửa đất số 1261:
[2.2.1] Ông Đ có xuất trình Giấy thoả thuận ngày 08/01/2017 được lập giữa ông Đ, bà N và ông Đ2; ngoài nội dung như ông Đ, bà N đã thỏa thuận với bà N1 thì còn bổ sung thêm nội dung ghi ý kiến của ông Đ2 như sau: “ Vào năm 2006 tôi là người có đóng tiền cho Phòng T số tiền 25.000.000đ. Số tiền này là do tôi đóng dùm cho anh chị tôi là ông Võ Văn Đ và bà Võ Thị Ngô . Số tiền hóa giá còn lại thì anh chị tôi tiếp tục đóng cho Nhà nước.
Căn nhà trên là của anh chị tôi, nếu sau này tôi có tranh chấp căn nhà trên tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật của Nhà nước”.
Giấy thỏa thuận này có xác nhận của Ủy ban nhân dân xã M xác nhận ông Đ2 có đến Ủy ban nhân dân xã ký vào Giấy thỏa thuận và trong biên bản hoà giải ngày 30/8/2018 tại Ủy ban nhân dân xã M, ông Đ2 thừa nhận có ký tên vào văn bản (Giấy thỏa thuận) do ông Đ đưa cho ông Đ2 ký tên vào, ông không xem nội dung, ký trong hoàn cảnh bà N1 đang ở bệnh viện (BL 193). Như vậy, có căn cứ xác định ông Đ2 có ký vào Giấy thỏa thuận ngày 08/01/2017 với ông Đ, bà N.
[2.2.2] Xét nội dung thỏa thuận này: Ông Đ trình bày cho rằng, do ông Đ2 nộp 25.000.000 đồng nên ông Đ hoàn trả lại cho ông Đ2 25.000.000 đồng nên giữa hai bên xác lập thoả thuận này nhưng ông Đ không cung cấp được chứng cứ đã trả tiền cho ông Đ2 và ông Đ2 không thừa nhận có nhận số tiền này; hiện ông Đ, bà N không tranh chấp số tiền này với ông Đ2.
[2.2.3] Như vậy, dù có thỏa thuận ngày 08/01/2017 thì ông Đ, bà N đã không sử dụng đất từ năm 1997 đến nay, không còn cư trú tại thửa đất số 1261 và cũng không còn tài sản trên đất nên không đủ điều kiện để được mua đấu giá quyền sử dụng đất.
[2.2.4] Trong khi ông Đ2 trình bày, ông ký Giấy thỏa thuận ngày 08/01/2017 trong lúc bà N1 đang nằm bệnh viện và khi ký ông không đọc nội dung. Nay, ông Đ cũng không chứng minh được có việc đã trả lại cho ông Đ2 số tiền 25.000.000 đồng tiền mua đấu giá đất nên không có căn cứ hai bên đã thực hiện theo Giấy thỏa thuận này. Và sau khi có Giấy thỏa thuận này thì ông Đ2, bà L vẫn là người bỏ tiền ra để xây nhà vào năm 2019 nhưng ông Đ, bà N không phản đối. Do đó, ông Đ, bà N yêu cầu hủy Quyết định số 165/QĐ-UBND ngày 29/3/2006 của Ủy ban nhân dân huyện Đ về việc giao đất bán đấu giá Hợp tác xã Mỹ Thạnh T1 cho ông Võ Thành Đ2 và yêu cầu ông Võ Thành Đ2, bà Lê Thị Kim L tháo dỡ nhà, trả lại quyền sử dụng đất cho ông Đ, bà N là không có căn cứ.
[3] Từ các nhận định trên, Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Đ, bà N là có căn cứ, đúng pháp luật. Ông Đ, bà N kháng cáo nhưng không cung cấp được chứng cứ mới nên không được chấp nhận yêu cầu kháng cáo như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh là phù hợp.
[4] Ý kiến của Luật sư Nguyễn Tấn Đ1 bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ông Đ, bà N không phù hợp với các nhận định trên nên không được chấp nhận.
[5] Ý kiến của Luật sư Nguyễn Thị C1 đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm là có căn cứ nên được chấp nhận.
[6] Các phần khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực thi hành.
Vì những lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Khoản 1 Điều 308 của Bộ Luật tố tụng dân sự năm 2015;
Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, quy định về án phí lệ, phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn ông Võ Văn Đ, bà Võ Thị N; giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 08/2023/DS-ST ngày 27 tháng 02 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An.
2. Về án phí dân sự phúc thẩm: Bà Võ Thị N, ông Võ Văn Đ phải chịu 300.000 đồng nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0001701 và số 0001702 ngày 10/3/2023 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Long An.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án./.
Bản án 603/2023/DS-PT về tranh chấp quyền sử dụng đất, yêu cầu hủy quyết định hành chính có liên quan
Số hiệu: | 603/2023/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 30/08/2023 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về