Bản án 776/2023/DS-PT về tranh chấp quyền sử dụng đất và yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 776/2023/DS-PT NGÀY 15/11/2023 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT VÀ YÊU CẦU HỦY GIẤY CHỨNG NHẬN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Ngày 15 tháng 11 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 464/2023/TLPT-DS ngày 16 tháng 8 năm 2023 về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất và yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 892/2023/DS-ST ngày 07/6/2023 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 2539/2023/QĐ-PT ngày 09 tháng 10 năm 2023 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Phạm Thị P, sinh năm 1954. Địa chỉ: A9/221 ấp 1, xã TN, huyện BC, Thành phố Hồ Chí Minh, vắng mặt.

Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn:

- Ông Trần Bảo Q, sinh năm 1997. Địa chỉ: 93 đường TVK, Phường 10, Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh (theo văn bản ủy quyền ngày 16/3/2023), vắng mặt.

- Bà Phạm Thị H, sinh năm 1960. Địa chỉ: A9/221 ấp 1, xã TN, huyện BC, Thành phố Hồ Chí Minh (theo văn bản ủy quyền ngày 04/01/2019), có mặt.

Ngưi bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Luật sư Nguyễn Minh H, Văn phòng Luật sư TTH, thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh, có mặt.

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Ngọc T, sinh năm 1965. Địa chỉ: A9/225 ấp 1, xã TN, huyện BC, Thành phố Hồ Chí Minh, vắng mặt.

Ngưi đại diện theo ủy quyền của bị đơn: Ông Nguyễn Hữu L, sinh năm 1973. Địa chỉ: B14/276 ấp 2, xã TN, huyện BC, Thành phố Hồ Chí Minh. Địa chỉ liên lạc: 163 đường ĐBP, Phường 15, quận BT, Thành phố Hồ Chí Minh, có mặt.

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

3.1. Bà Trần Thị Thanh L, sinh năm 1962. Địa chỉ: 10/11B tổ 13, khu phố 4, phường TTT, Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh, vắng mặt.

Ngưi đại diện theo ủy quyền của bà Loan: Ông Nguyễn Đắc T, sinh năm 1976. Địa chỉ: Ấp 4A, xã TT, huyện CĐ, tỉnh Long An, vắng mặt.

3.2. Ông Nguyễn Ngọc H, sinh năm 1967. Địa chỉ: A9/224 ấp 1, xã TN, huyện BC, Thành phố Hồ Chí Minh, vắng mặt.

3.3. Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1938, vắng mặt.

3.4. Ông Nguyễn Ngọc T, sinh năm 1979, xin vắng mặt.

Cùng địa chỉ: A9/225 ấp 1, xã TN, huyện BC, Thành phố Hồ Chí Minh.

3.5. Bà Nguyễn Thị Ngọc L, sinh năm 1961. Địa chỉ: C1/25 khu phố 3, thị trấn TT, huyện BC, Thành phố Hồ Chí Minh, vắng mặt.

3.6. Ông Nguyễn Ngọc A, sinh năm 1964, có mặt.

3.7. Bà Đoàn Thị K, sinh năm 1964, vắng mặt.

3.8. Bà Nguyễn Thị Ngọc B, sinh năm 1991, vắng mặt.

3.9. Bà Nguyễn Thị Ngọc H, sinh năm 1989, vắng mặt.

3.10. Ông Nguyễn Ngọc T, sinh năm 1992, vắng mặt.

Cùng địa chỉ: A9/216A ấp 1, xã TN, huyện BC, Thành phố Hồ Chí Minh.

3.11. Bà Nguyễn Ngọc H, sinh năm 1958. Địa chỉ: A11/15 tổ 3, khu phố 1, thị trấn TT, huyện BC, Thành phố Hồ Chí Minh, vắng mặt.

Ngưi đại diện theo ủy quyền của ông Nguyễn Ngọc H, bà Nguyễn Thị T, bà Nguyễn Thị Ngọc L, bà Nguyễn Ngọc H: Ông Nguyễn Hữu L, sinh năm 1973. Địa chỉ: B14/276 ấp 2, xã TN, huyện BC, Thành phố Hồ Chí Minh. Địa chỉ liên lạc:

163 đường ĐBP, Phường 15, quận BT, Thành phố Hồ Chí Minh, có mặt.

3.12. Ông Phạm Văn H, chết năm 2020.

Người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Hiền:

3.12.1. Bà Trương Thị H, sinh năm 1961, vắng mặt.

3.12.2. Bà Phạm Hồng N, sinh năm 1986, vắng mặt.

3.12.3. Ông Phạm Trương Đức V, sinh năm 1989, vắng mặt.

3.12.4. Ông Phạm Trương Đức N, sinh năm 1991, vắng mặt.

Cùng địa chỉ: 15/70/15 HB, Phường 3, Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh.

3.13. Bà Phạm Thị H, sinh năm 1960. Địa chỉ: A9/221 ấp 1, xã TN, huyện BC, Thành phố Hồ Chí Minh, có mặt.

3.14. Ủy ban nhân dân huyện BC, Thành phố Hồ Chí Minh, vắng mặt 4. Do có kháng cáo của:

4.1. Bà Phạm Thị P - Là nguyên đơn.

4.2. Bà Phạm Thị H - Là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo các đơn khởi kiện và đơn khởi kiện bổ sung nguyên đơn Phạm Thị P trình bày: Vào năm 1982 cụ Phạm Văn H1 là cha của bà Phạm Thị P có chuyển nhượng của bà Nguyễn Thị B một lô đất thổ cư ngang 20m x 50m thuộc thửa 407, tờ bản đồ số 06 tọa lạc tại ấp 1, xã TN, huyện BC. Sau khi chuyển nhượng đất, cụ Phạm Văn H1 có cất một nhà lá tạm bằng lá trên đất. Đến năm 1989 cụ Phạm Văn H1 chết, sau khi cụ Phạm Văn H1 chết, em của bà Phạm Thị P là bà Phạm Thị H quản lý sử dụng đất, năm 1990 bà Phạm Thị H cho bà Phan Thị Kim L ở nhờ. Đến năm 2006 Tòa án giải quyết buộc bà Phan Thị Kim L trả lại đất cho gia đình bà Phạm Thị P. Sau khi nhận lại đất, bà Phạm Thị P phát hiện phần đất của gia đình bà chỉ còn 532m2 đất, diện tích còn lại 468m2 bị gia đình ông Nguyễn Văn T đăng ký cấp quyền sử dụng đất và được Ủy ban nhân dân huyện BC cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 3960/QSDĐ cho hộ ông Nguyễn Văn T ngày 20/11/2003. Năm 2010 ông Nguyễn Văn T chết, ông Nguyễn Văn A là con của ông Nguyễn Văn T quản lý sử dụng đất với diện tích 468m2 đến năm 2015 các đồng thừa kế của ông Nguyễn Văn T đã chuyển nhượng cho bà Trần Thị Thanh L.

Nay bà Phạm Thị P khởi kiện yêu cầu ông Nguyễn Ngọc T trả lại phần đất diện tích 443,3m2 đất thuộc thửa 647, 646 tờ bản đồ số 44, tọa lạc tại ấp 1, xã TN , huyện BC, Thành phố Hồ Chí Minh và yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BY 609242 số vào sổ cấp Giấy chứng nhận số: CH.0.4446 ngày 31/3/2015 cấp cho bà Trần Thị Thanh L đối với phần diện tích đất đang tranh chấp thuộc lộ giới kênh Xáng Ngang có vị trí và diện tích như trên.

- Bị đơn ông Nguyễn Ngọc T trình bày: Phần đất tranh chấp có nguồn gốc của cụ Nguyễn Văn Q cha của ông Nguyễn Văn T khai hoang và trực tiếp sử dụng. Đến năm 1977 tập đoàn lấy một phần đất của gia đình ông Nguyễn Văn T chia cho hộ bà Nguyễn Thị B khoảng 500m2 và bà Nguyễn Thị B đã cất nhà tạm để ở. Phần đất liền kề do ông Nguyễn Văn T trực tiếp canh tác sử dụng ổn định đến 02/6/1995 hộ ông Nguyễn Văn T được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất diện tích 5.631m2 theo quyết định 1676/QĐUB ngày 02/6/1995.

Thời điểm năm 2005 khi ông Nguyễn Văn T còn sống, bà Phạm Thị P có tranh chấp với ông Nguyễn Văn T, bà Phạm Thị P cho rằng phần đất 468m2 thuộc một phần thửa 407 tờ bản đồ số 06 được ông Phạm Văn H1 (cha của bà Phạm Thị P) mua của bà Nguyễn Thị B. Tuy nhiên tại biên bản hòa giải ngày 27/5/2005 bà Phạm Thị P không xác định được phần đất có nguồn gốc của bà Phạm Thị P. Sau đó ông Nguyễn Văn T xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa 407 nêu trên, Ủy ban nhân dân xã đã có Thông báo số 119/TB-UBND ngày 06/10/2009 cho bà Phạm Thị P, đến ngày 15/12/2009 Ủy ban nhân dân xã tổ chức giải quyết, các bên hòa giải thành do bà Phạm Thị P rút đơn. Ông Nguyễn Văn T được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 27/5/2010 diện tích 224,2m2 chiết thửa 35 tờ bản đồ số 44 (Tài liệu BĐĐC) tương ứng một phần thửa 407 tờ bản đồ số 06 (Tài liệu 02/CT-UB). Đồng thời được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất diện tích 2.136,6m2 gồm chiết thửa 31, 32, 33, 34, 40 tờ bản đồ số 44 (BĐĐC) tương ứng một phần thửa 407 diện tích 2.136,6m2 tờ bản đồ số 06 (Tài liệu 02/CT-UB).

Đến năm 2010 ông Nguyễn Văn T chết, đồng thừa kế của ông Nguyễn Văn T có ông Nguyễn Ngọc A đại diện hộ gia đình đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa 406 diện tích 2.186,3m2 đất trồng cây lâu năm và thửa 479 diện tích 2038m2 đất trồng lúa; thửa 638 tờ bản đồ số 44 diện tích 2.716,6m2 đất trồng cây lâu năm; thửa 630 tờ bản đồ số 44 diện tích 224,2m2 đất nuôi trồng thủy sản; thửa 629 tờ bản đồ số 44 diện tích 2.136,6m2 đất trồng cây lâu năm.

Ngày 27/01/2015 hộ ông Nguyễn Ngọc A gồm: bà Nguyễn Thị T, ông Nguyễn Ngọc T, ông Nguyễn Ngọc T, ông Nguyễn Ngọc A, bà Đoàn Thị K, bà Nguyễn Thị Ngọc B, bà Nguyễn Thị Ngọc H, ông Nguyễn Ngọc T, Nguyễn Thị Ngọc L, Nguyễn Ngọc H, Nguyễn Ngọc H lập hợp đồng chuyển nhượng cho bà Trần Thị Thanh L gồm các thửa 630, 638 tờ bản đồ số 44 diện tích 2.801,2m2 được Phòng công chứng An Lạc, Thành phố Hồ Chí Minh chứng thực và bà Trần Thị Thanh L đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BY609242 số vào sổ CH.0.4446 ngày 31/3/2015 đối với diện tích 2.600,8m2 đất trồng cây lâu năm thuộc thửa 646 và diện tích 200,4m2 đất nuôi trồng thủy sản thuộc thửa 647 tờ bản đồ số 44. Sau khi nhận chuyển nhượng đất, bà Trần Thị Thanh L chuyển đổi mục đích sử dụng đất sang đất ở nông thôn diện tích 823,1m2 và được Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện BC chấp thuận việc chuyển mục đích sử dụng đất ngày 29/9/2015.

Do đó, ông Nguyễn Ngọc T không chấp nhận theo yêu cầu khởi kiện của bà Phạm Thị P. Vào năm 2015 bà Trần Thị Thanh L sang nhượng đất của gia đình ông Nguyễn Ngọc T gồm thửa 646 và 647 tờ bản đồ số 44 tại xã TN, huyện BC, Thành phố Hồ Chí Minh theo hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 000429 ký ngày 27/01/2015 tại Phòng công chứng An Lạc thị trấn TT, huyện BC, Thành phố Hồ Chí Minh. Đến ngày 31/3/2015 bà Trần Thị Thanh L được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Sau đó bà Trần Thị Thanh L làm thủ tục xin chuyển mục đích sử dụng đất và được công nhận một phần của thửa 646 diện tích 823,1m2 là đất ở nông thôn vào ngày 29/9/2015. Khi bà Trần Thị Thanh L tiến hành xây dựng hàng rào bao quanh khu đất thì bà Phạm Thị P ngăn cản. Ngày 03/7/2015 Ủy ban nhân dân xã TN hòa giải nhưng không thành sau đó hồ sơ vụ án được Tòa án nhân dân huyện BC thụ lý giải quyết, bà Phạm Thị P rút đơn nên Tòa án đã ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án. Năm 2016 bà Phạm Thị P tiếp tục khởi kiện tranh chấp quyền sử dụng đất đối với ông Nguyễn Ngọc T đối với diện tích 443,3m2 thửa đất 646 và 647 tờ bản đồ số 44 tại xã TN, huyện BC, Thành phố Hồ Chí Minh. Nay bà Trần Thị Thanh L yêu cầu Tòa án bác yêu cầu khởi kiện của bà Phạm Thị P và công nhận quyền sử dụng đất cho bà Trần Thị Thanh L.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Ngọc A, Đoàn Thị K, Nguyễn Thị Ngọc H, Nguyễn Thị Ngọc B, Nguyễn Ngọc T, Nguyễn Ngọc H, Nguyễn Thị T, Nguyễn Ngọc T có ý kiến: Đề nghị bác đơn khởi kiện của bà Phạm Thị P.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ủy ban nhân dân huyện BC có ý kiến: Theo hồ sơ sao lục số 014916 ngày 01/6/2020 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện BC thì phần đất thuộc thửa 464, 467 tờ bản đồ số 44 tài liệu BĐĐC xã TN đã được Ủy ban nhân dân huyện BC cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CH.0.4446 ngày 31/3/2015 cho bà Trần Thị Thanh L, địa chỉ số 10/11B tổ 13, khu phố 4, phường TTT, Quận 7, thành phố Hồ Chí Minh.

Theo Tài liệu 299/TTg khu đất đang tranh chấp thuộc thửa 361 tờ bản đồ số 03 (Thổ tập trung), thửa 354 tờ bản đồ số 03 do ông Nguyễn Văn T đăng ký. Theo Tài liệu 02/CT-UB khu đất đang tranh chấp thuộc thửa 407 tờ bản đồ số 06 Thổ tập trung.

Theo tài liệu Bản đồ địa chính thuộc thửa 32, 35, 31, 40 Tờ bản đồ số 44 do ông Nguyễn Văn T đăng ký; thửa 33 tờ bản đồ số 44 (BĐĐC) do ông Nguyễn Trung N đăng ký, thửa 34 (BĐĐC) do ông Nguyễn Văn H đăng ký.

Khu đất đã được Ủy ban nhân dân huyện BC cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CH.0.4446 ngày 31/3/2015 cho bà Trần Thị Thanh L. Ngày 26/4/2021 Ủy ban nhân dân xã TN tiến hành xác minh thực tế cùng Ban nhân dân ấp 1 về hiện trạng, người quản lý và đang sử dụng khu đất thuộc thửa 646, 647 tờ bản đồ 44 (BĐĐC). Theo đó tại thời điểm xác minh khu đất thuộc thửa 646 tờ bản đồ số 44 (BĐĐC) có hiện trạng là vườn tạp. Đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số: 892/2023/DS-ST ngày 07/6/2023 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:

Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Phạm Thị P yêu cầu: Ông Nguyễn Ngọc T trả lại cho bà Phạm Thị P phần đất thuộc lộ giới kênh Xáng Ngang có chiều dài 21,91m và 22,8m; chiều rộng 20,4m. Tổng diện tích 443,3m2 thuộc thửa 647 và một phần thửa 646 tờ bản đồ số 44 toạ lạc tại ấp 1, xã TN, huyện BC, Thành phố Hồ Chí Minh theo Bản đồ hiện trạng vị trí, áp ranh ngày 10 tháng 6 năm 2019 của Trung Tâm đo đạc bản đồ - Sở Tài Nguyên và Môi trường Thành phố Hồ Chí Minh; Huỷ một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho bà Trần Thị Thanh L theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số vào sổ cấp GCN: CH.0.4446 do Ủy ban nhân dân huyện BC cấp ngày 31/3/2015.

Ngoài ra Bản án sơ thẩm còn quyết định về chi phí tố tụng; về án phí dân sự sơ thẩm; về nghĩa vụ thi hành án và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

- Ngày 16/6/2023 nguyên đơn Phạm Thị P và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Phạm Thị H kháng cáo yêu cầu Toà án cấp phúc thẩm sửa án sơ thẩm theo hướng chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Phạm Thị P.

Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay:

- Nguyên đơn bà Phạm Thị P và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Phạm Thị H do bà Phạm Thị H làm đại diện giữ nguyên yêu cầu kháng cáo yêu cầu ông Nguyễn Ngọc T trả lại phần đất 443,3m2 thuộc lộ giới kênh Xáng Ngang và yêu cầu hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Ủy ban nhân dân huyện BC cấp cho bà Trần Thị Thanh L đối với diện tích 443,3m2 thuộc thửa 647 và một phần thửa 646 tờ bản đồ số 44 toạ lạc tại ấp 1, xã tân Nhựt, huyện BC, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn có ý kiến: Tại biên bản xem xét thẩm định tại chỗ thể hiện phần đất tranh chấp là lối đi xi măng do gia đình bà Phạm Thị P gia cố để đi ra đường bờ kênh Xáng, nhưng Tòa án sơ thẩm không tiến hành định giá phần đường đi là chưa đảm bảo quyền lợi của nguyên đơn do đó đề nghị hủy án sơ thẩm, giao về Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án.

- Bị đơn ông Nguyễn Ngọc T có ông Nguyễn Hữu L là người đại diện theo ủy quyền trình bày: Việc gia đình bà Phạm Thị P tự ý gia cố đường xi măng trên đất để đi ra đường bờ Kênh Xáng, do đó không chấp nhận kháng cáo của bà Phạm Thị P, bà Phạm Thị H, đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm giải quyết vụ án:

Về tố tụng: Những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự; Đơn kháng cáo của nguyên đơn Phạm Thị P, bà Phạm Thị H hợp lệ đủ điều kiện để giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.

Về nội dung kháng cáo: Xét thấy bản án sơ thẩm tuyên xử là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật. Tại phiên tòa phúc thẩm người kháng cáo không xuất trình được chứng cứ mới làm thay đổi bản chất vụ án. Do đó đề nghị bác đơn kháng cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa; Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Đơn kháng cáo của nguyên đơn Phạm Thị P và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Phạm Thị H làm trong thời hạn luật định, đủ điều kiện để giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.

Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có kháng cáo đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ 2 mà vẫn vắng mặt nên tiến hành xét xử vụ án theo quy định tại khoản 3 Điều 296 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Theo Bản đồ hiện trạng vị trí – áp ranh xác định phần đất tranh chấp có diện tích 443,3m2 theo các mốc 1, 2, 3, 81 thuộc thửa 646 và 647 tờ bản đồ số 44 xã TN, huyện BC, Thành phố Hồ Chí Minh do bà Trần Thị Thanh L, địa chỉ số 10/11B tổ 13, khu phố 4, phường TTT, Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CH.0.4446 được Ủy ban nhân dân huyện BC cấp ngày 31/3/2015.

Nguyên đơn bà Phạm Thị P khởi kiện yêu cầu bị đơn ông Nguyễn Ngọc T trả lại diện tích 443,3m2 đất thuộc thửa 647, 646 tờ bản đồ số 44, tọa lạc tại ấp 1, xã TN, huyện BC, Thành phố Hồ Chí Minh thuộc lộ giới kênh Xáng Ngang và yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BY 609242 số vào sổ cấp Giấy chứng nhận số: CH.0.4446 do Ủy ban nhân dân huyện BC cấp cho bà Trần Thị Thanh L ngày 31/3/2015.

Bị đơn ông Nguyễn Ngọc T và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Trần Thị Thanh L không chấp nhận yêu cầu của bà Phạm Thị P.

[3] Nguyên đơn bà Phạm Thị P khai rằng nguồn gốc đất là do cha của bà là cụ Phạm Văn H mua của bà Nguyễn Thị B vào năm 1982 một lô đất thổ cư có diện tích 20m x 50m, hai bên chỉ thỏa thuận miệng sau này được ông Huỳnh Văn D (con bà Nguyễn Thị B) lập giấy viết tay xác nhận lại việc cụ Phạm Văn H1 có mua phần đất trên của bà Nguyễn Thị B. Còn bị đơn ông Nguyễn Ngọc T thì cho rằng nguồn gốc đất là của cha ông Nguyễn Ngọc T là cụ Nguyễn Văn T khai hoang sử dụng đến năm 1977 thì tập đoàn lấy một phấn đất của cụ Nguyễn Văn T cấp cho các hộ dân trong đó có cấp cho bà Nguyễn Thị B, nhưng bà Nguyễn Thị B sử dụng một thời gian thì không sử dụng đất nữa nên cụ Nguyễn Văn T lấy lại đất để sử dụng, sau đó cụ Nguyễn Văn T kê khai đăng ký quyền sử dụng đất và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

[3.1] Theo Tài liệu 299/TTg thể hiện khu đất đang tranh chấp thuộc thửa 361 tờ bản đồ số 03 (Thổ tập trung), thửa 354 tờ bản đồ số 03 do cụ Nguyễn Văn T đăng ký và Theo Tài liệu 02/CT-UB thì khu đất đang tranh chấp thuộc thửa 407 tờ bản đồ số 06 Thổ tập trung. Theo tài liệu Bản đồ địa chính thuộc thửa 32, 35, 31, 40 tờ bản đồ số 44 do cụ Nguyễn Văn T đăng ký; thửa 33 tờ bản đồ số 44 (BĐĐC) do ông Nguyễn Trung N đăng ký, thửa 34 (BĐĐC) do ông Nguyễn Văn H đăng ký.

Hồ sơ vụ án thể hiện vào năm 2009 bà Phạm Thị P có tranh chấp đất với cụ Nguyễn Văn T, tại biên bản hòa giải tranh chấp đất do Ủy ban nhân dân xã TN lập ngày 27/5/2009 bà Phạm Thị P khai phần đất 20m x 50m của gia đình bà Phạm Thị P do cụ Phạm Văn H1 (nhận chuyển nhượng của bà Nguyễn Thị B) chết để lại cho bà Phạm Thị P và bà Phạm Thị H. Bà Hồng có cho bà Loan ở nhờ sau đó phát sinh tranh chấp. Năm 2006, Tòa án nhân dân huyện BC giải quyết buộc bà Phan Thị Kim L, ông Nguyễn Văn H trả lại đất cho gia đình bà Phạm Thị P diện tích 532m2 đất thuộc chiết thửa 407 tờ bản đồ số 06 nên bà Phạm Thị P có nguyện vọng được lấy lại phần đất còn lại 468m2. Cụ Tỏ khai nguồn gốc đất của gia đình cụ Nguyễn Văn T khai hoang trực tiếp sử dụng, năm 1977 tập đoàn lấy đất chia cho bà Nguyễn Thị B, bà Nguyễn Thị B ở 1 - 2 năm thì không sử dụng nữa mà bán lại cho cụ Phạm Văn H1 nên cụ Nguyễn Văn T đã lấy lại một phần đất để sử dụng từ năm 1978 và đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (bút lục 258-259).

Cũng tại biên bản hòa giải tranh chấp đất do Ủy ban nhân dân xã TN lập ngày 15/12/2009 bà Phạm Thị P khẳng định diện tích 468m2 đất thuộc thửa 407 tờ bản đồ số 06 không còn tranh chấp với cụ Nguyễn Văn T, bà Phạm Thị P chỉ xin 05 mét nằm trong hành lang bảo vệ kênh Xáng, nhưng cụ Nguyễn Văn T không đồng ý. Bà Phú trình bày bổ sung:“ tôi chỉ thương lượng với ông Nguyễn Văn T chứ không có tranh chấp. Gia đình ông Nguyễn Văn T không đồng ý thì bà Phạm Thị P cũng chấp nhận”. Kể từ ngày 15/12/2009 hai gia đình không còn tranh chấp (bút lục 255-256).

Do đó, sau khi Ủy ban nhân dân xã TN lập biên bản ngày 15/12/2009 về việc bà Phạm Thị P không còn tranh chấp đất, cụ Nguyễn Văn T kê khai đăng ký và được Ủy ban nhân dân huyện BC cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 27/5/2010 là có căn cứ, đúng quy định của Luật đất đai năm 2003.

[3.2] Sau khi ông Nguyễn Văn T chết, các đồng thừa kế của ông Nguyễn Văn T kê khai thừa kế quyền sử dụng đất và ông Nguyễn Ngọc A đại diện hộ gia đình đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được Ủy ban nhân dân huyện BC cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH 01428 ngày 25/7/2011 đối với thửa 630 tờ bản đồ số 44 diện tích 224,2m2 đất nuôi trồng thủy sản; Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH 01891 ngày 01/3/2012 đối với thửa 638 tờ bản đồ số 44 diện tích 2.716,6m2 đất trồng cây lâu năm là đúng quy định của pháp luật.

Đến năm 2012 bà Phạm Thị P khởi kiện ông Nguyễn Ngọc T về việc tranh chấp lối đi, tại biên bản hòa giải tranh chấp lối đi ngày 14/9/2012 (bút lục 246-247) bà Phạm Thị P xin nâng cấp, sửa chữa đường đi vào nhà bà nhưng ông Nguyễn Ngọc T ngăn cản nên phát sinh tranh chấp, ông Nguyễn Ngọc T thì cho rằng đường đi vào nhà bà Phạm Thị P là trước đây cụ Nguyễn Văn T đắp để giữ nước chứ không phải là lối đi công cộng, bà Phạm Thị P có lối đi khác với nhiều hộ dân trong xóm, nếu bà Phạm Thị P gia cố đường đi sẽ cắt đôi thửa đất của gia đình ông Nguyễn Ngọc T nên ông Nguyễn Ngọc T yêu cầu bà Phạm Thị P tháo dỡ nhà vệ sinh trên ao do bà Phạm Thị P đã xây dựng trên đất của ông. Bà Phú cho rằng năm 1980 bà mua phần đất thuộc thửa 632 tờ bản đồ số 44 diện tích 232,1m2 mục đích đất trồng cây lâu năm được Ủy ban nhân dân huyện BC cấp ngày 01/7/2010, lúc đó đã có đường đi này và gia đình bà vẫn sử dụng để đi lại cho đến nay. Do có nhu cầu sử dụng nên bà xin gia cố lại đường để đi chứ không tranh chấp đất, bà chấp nhận tháo dỡ nhà vệ sinh trên ao.

Do không có phát sinh tranh chấp về quyền sử dụng đất nên ngày 27/01/2015 hộ ông Nguyễn Ngọc A gồm: bà Nguyễn Thị T, ông Nguyễn Ngọc T, ông Nguyễn Ngọc T, ông Nguyễn Ngọc A, bà Đoàn Thị K, bà Nguyễn Thị Ngọc B, bà Nguyễn Thị Ngọc H, ông Nguyễn Ngọc T, Nguyễn Thị Ngọc L, Nguyễn Ngọc H, Nguyễn Ngọc H lập hợp đồng chuyển nhượng cho bà Trần Thị Thanh L gồm các thửa 630, 638 tờ bản đồ số 44 diện tích 2.801,2m2 được Phòng công chứng An Lạc, Thành phố Hồ Chí Minh chứng thực và bà Loan đã được Ủy ban nhân dân huyện BC cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BY609242 số vào sổ CH.0.4446 ngày 31/3/2015 đối với diện tích 2.600,8m2 đất trồng cây lâu năm thuộc thửa 646 và diện tích 200,4m2 đất nuôi trồng thủy sản thuộc thửa 647 tờ bản đồ số 44 là đúng quy định của pháp luật. Sau khi nhận chuyển nhượng đất, bà Loan chuyển đổi mục đích sử dụng đất sang đất ở nông thôn diện tích 823,1m2 và được Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện BC chấp thuận việc chuyển mục đích sử dụng đất ngày 29/9/2015 là phù hợp.

Bà Phú khởi kiện cho rằng phần đất tranh chấp có nguồn gốc của cha bà là cụ Phạm Văn H mua của bà Nguyễn Thị B, nhưng bà Phạm Thị P không cung cấp được giấy tờ chứng minh quá trình sử dụng, đăng ký kê khai quyền sử dụng đất của cụ Phạm Văn H1 và của bà Phạm Thị P mà do cụ Nguyễn Văn T đăng ký kê khai theo Chỉ thị 299/TTg và Chỉ thị 02/UB sau đó cụ Nguyễn Văn T đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Sau khi cụ Nguyễn Văn T chết, các thừa kế của cụ Nguyễn Văn T kê khai thừa kế và thống nhất chuyển nhượng cho bà Trần Thị Thanh L. Hiện tại bà Trần Thị Thanh L đã được Ủy ban nhân dân huyện BC cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CH.0.4446 ngày 31/3/2015 là phù hợp quy định của pháp luật về đất đai.

Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Phạm Thị P về việc yêu cầu ông Nguyễn Ngọc T trả lại cho bà Phạm Thị P phần đất thuộc lộ giới Kênh Xáng Ngang có chiều dài 21,91m và 22,8m; chiều rộng 20,4m với tổng diện tích 443,3m2 thuộc thửa 647 và một phần thửa 646 tờ bản đồ số 44 toạ lạc tại ấp 1, xã TN, huyện BC, Thành phố Hồ Chí Minh và yêu cầu huỷ một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho bà Trần Thị Thanh L theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số vào sổ cấp GCN: CH.0.4446 do Ủy ban nhân dân huyện BC cấp ngày 31/3/2015 là có căn cứ.

[4] Đối với phần lối đi bằng xi măng trên đất: Tại Bản đồ hiện trạng vị trí - áp ranh số hợp đồng 127372/TTĐĐBĐ- VPTT ngày 10/6/2019 của Trung tâm đo đạc bản đồ - Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố Hồ Chí Minh và Biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 13/6/2019 xác định phần đất đang tranh chấp tại vị trí số (1), (2) và (3) thuộc Bản đồ hiện trạng vị trí – áp ranh thực tế thể hiện: Tại vị trí số (1) và (3) là ao nước; Tại vị trí số (2) là đường xi măng dài khoảng 22m, rộng 2,5m. Nguyên đơn bà Phạm Thị P xác định trước đây là đường đất, đến năm 2016 thì bà cải tạo, gia cố đường xi măng. Ngoài ra, cuối đường xi măng hướng ra kênh Xáng Ngang còn có 01 cửa rào bằng khung sắt, lưới B40 có chiều cao khoảng 2,5m, rộng khoảng 3m do gia đình bà Phạm Thị P làm khoảng năm 2016.

Tại phiên tòa phúc thẩm bà Phạm Thị H đại diện theo ủy quyền của bà Phạm Thị P cũng thừa nhận phần đường đi do gia đình bà gia cố để đi ra đường bờ kênh Xáng, sau khi phát sinh tranh chấp gia đình bà Phạm Thị P không còn sử dụng lối đi này và đã sử dụng lối đi khác để đi ra đường công cộng. Quá trình giải quyết vụ án tại cấp sơ thẩm các bên đều không tranh chấp phần tài sản là lối đi xi măng và không có yêu cầu định giá tài sản. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm không định giá phần tài sản lối đi xi măng là có căn cứ. Tại phiên tòa phúc thẩm, các đương sự cũng không có yêu cầu định giá phần tài sản là lối đi bằng xi măng do bà Phạm Thị P gia cố vào năm 2016.

Vì vậy, không chấp nhận ý kiến của Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bà Phạm Thị P đề nghị hủy án sơ thẩm giao về Tòa án sơ thẩm gải quyết lại vụ án để tiến hành định giá tài sản là lối đi xi măng do bà Phạm Thị P xây dựng trên đất. Các đương sự có quyền khởi kiện bằng một vụ án khác đối với phần giá trị tài sản là lối đi xi măng và cửa rào bằng khung sắt, lưới B40 khi có yêu cầu.

[5] Quan điểm của của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị bác kháng cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm là có căn cứ, phù hợp với nhận định trên.

[6] Về án phí dân sự phúc thẩm: Bà Phạm Thị P và bà Phạm Thị H là người cao tuổi nên được miễn nộp án phí dân sự phúc thẩm theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[7] Các Quyết định khác của án sơ thẩm về chi phí tố tụng; về án phí dân sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật thi hành kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì những lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Áp dụng khoản 1 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

- Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà Phạm Thị P và bà Phạm Thị H.

2. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số: 892/2023/DS-ST ngày 07/6/2023 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh:

Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Phạm Thị P về việc yêu cầu ông Nguyễn Ngọc T trả lại cho bà Phạm Thị P phần đất thuộc lộ giới kênh Xáng Ngang có chiều dài 21,91m và 22,8m; chiều rộng 20,4m. Tổng diện tích 443,3m2 thuộc thửa 647 và một phần thửa 646 tờ bản đồ số 44 toạ lạc tại ấp 1, xã TN, huyện BC, Thành phố Hồ Chí Minh theo Bản đồ hiện trạng vị trí, áp ranh ngày 10 tháng 6 năm 2019 của Trung Tâm đo đạc bản đồ - Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố Hồ Chí Minh; Hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho bà Trần Thị Thanh L theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số vào sổ cấp GCN: CH.0.4446 do Ủy ban nhân dân huyện BC cấp ngày 31/3/2015.

3. Các đương sự bà Phạm Thị P và bà Phạm Thị H được miễn nộp án phí dân sự phúc thẩm.

4. Các Quyết định khác của án sơ thẩm về chi phí tố tụng; về án phí dân sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật thi hành kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

189
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

 Bản án 776/2023/DS-PT về tranh chấp quyền sử dụng đất và yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

Số hiệu:776/2023/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 15/11/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;