Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất và đòi lại tài sản số 175/2022/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 175/2022/DS-PT NGÀY 11/05/2022 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT VÀ ĐÒI LẠI TÀI SẢN

Ngày 11 tháng 5 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 18/2022/TLPT-DS ngày 21 tháng 01 năm 2022 về “Tranh chấp về quyền sử dụng đất và đòi lại tài sản”.

Do bản án dân sự sơ thẩm số: 36/2021/DS-ST ngày 24 tháng 11 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện T bị kháng cáo;

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 98/2022/QĐ- PT ngày 21 tháng 3 năm 2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn N, sinh năm 1963. Địa chỉ: ấp M, xã M, huyện T, tỉnh Đồng Tháp.

Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị T, sinh năm 1996. Địa chỉ: ấp 4, xã T, huyện T, tỉnh Đồng Tháp là người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn (văn bản ủy quyền ngày 10 tháng 5 năm 2022).

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Bà Võ Thị B là Luật sư của Văn phòng luật sư B thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Đồng Tháp.

2. Bị đơn: Ông Võ Văn L, sinh năm 1972.

Địa chỉ: ấp M, xã M, huyện T, tỉnh Đồng Tháp.

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

3.1. Bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1953;

3.2. Bà Nguyễn Thị Thanh T, sinh năm 1981;

3.3. Ông Lê Long H, sinh năm 1971;

Cùng địa chỉ: ấp M, xã M, huyện T, tỉnh Đồng Tháp.

3.4. Bà Nguyễn Thị Đ, sinh năm 1965;

3.5. Anh Nguyễn Văn Q, sinh năm 1988;

3.6. Anh Nguyễn Văn H, sinh năm 1992;

3.7. Anh Nguyễn Dũng P, sinh năm 1983;

3.8. Chị Nguyễn Thị Kiều L, sinh năm 1985;

Cùng địa chỉ: ấp M, xã M, huyện T, tỉnh Đồng Tháp.

3.9. Ông Võ Văn X, sinh năm 1931;

3.10. Bà Nguyễn Thị Thu T, sinh năm 1973;

3.11. Chị Võ Thị Trà M, sinh năm 1999;

Cùng địa chỉ: ấp M, xã M, huyện T, tỉnh Đồng Tháp.

3.12. Ủy ban nhân dân huyện T;

Người đại diện theo pháp luật: Bà Trần Thị Q; Chức vụ: Chủ tịch. Địa chỉ: khóm 3, thị trấn M, huyện T, tỉnh Đồng Tháp.

4. Người kháng cáo: Ông Nguyễn Văn N, là nguyên đơn. Bà Nguyễn Thị Đ, là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

(Chị Linh, bà Đ và Luật sư B có mặt; Ông L và Ủy ban nhân dân huyện T có đơn xin vắng mặt; Các đương sự khác vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Nguyên đơn ông Nguyễn Văn N do chị Nguyễn Thị T đại diện ủy quyền trình bày: Vào ngày 03/12/2003, ông N có chuyển nhượng cho ông Võ Văn L diện tích đất là 6.116m2, gồm 02 thửa 52, 53 tờ bản đồ số 01, đất tọa lạc tại xã M, huyện T, tỉnh Đồng Tháp, lúc chuyển nhượng hai bên thỏa thuận về ranh đất đo từ Chướng 200 trở ra ngoài lộ 846, hướng Đông giáp đất Huỳnh Chí T, hướng Tây giáp đất ông Nguyễn Vĩnh M, hướng Nam giáp chướng 200 và đất ông Nguyễn Vĩnh T, hướng Bắc giáp đất của ông N. Ông N đưa giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông L làm thủ tục, ông L được cấp giấy ngày 30/12/2003. Lúc chuyển nhượng đất ông L nói không mua phần đất từ đìa lạng giáp với lộ (gọi tắt là mốc lộ giới) diện tích 914m2, ông L đăng ký luôn phần đất còn lại của ông N diện tích 7.030m2, dư 914m2 so với diện tích chuyển nhượng. Năm 2012, ông N phát hiện ông Lê Long H bơm cát lên phần đất 914m2, ông N tranh cản và báo với ấp nhưng không giải quyết, sau đó lấy tre rào lại.

Sau khi tranh chấp đo đạc phần diện tích dư chênh lệch so với đơn khởi kiện nên ông Nguyễn Văn N có đơn thay đổi yêu cầu, yêu cầu ông Võ Văn L, bà Nguyễn Thị N, bà Nguyễn Thị Thanh T và ông Lê Long H liên đới trả diện tích 504m2 trong diện tích 7.030m2, thuộc thửa 2383 tờ bản đồ số 01, đất tọa lạc tại xã M, huyện T, tỉnh Đồng Tháp.

Nhưng nay ông N xác định lại vị trí đất tranh chấp, vì hiện trạng khi giao đất ông N và ông L thống nhất đo đến cái đìa lạng (giáp lộ M - Đốc Binh Kiều) đóng trụ đá và ông L thống nhất tính tiền diện tích từ trụ đá đo trở vô, còn từ trụ đá trở ra lộ (Mặt tiền) là của ông N, lúc đó ông L cho rằng đất mương lộ và hầm hố nên không mua, phần diện tích đất còn lại của ông N là 571,2m2 (gồm các mốc M1 – M2 là 57,37m; Mốc M2 – M3 là 4,35m; M3 – M10 là 45,3m; M 10 – M1 là 24,18m), hiện nay phần đất tranh chấp có diện tích 165,7m2 bị thu Hi để mở rộng lộ bà Nguyễn Thị Thanh T, ông Lê Long H nhận tiền bồi thường là 121.810.725 đồng.

Nay ông Nguyễn Văn N do chị Nguyễn Thị T đại diện ủy quyền yêu cầu ông Võ Văn L, bả Nguyễn Thị N, bà Nguyễn Thị Thanh T và ông Lê Long H có trách nhiệm trả lại cho ông N phần đất diện tích 571,2m2 (gồm các mốc M1 – M2 là 57,37m; Mốc M2 – M3 là 4,35m; M3 – M10 là 45,3m; M 10 – M1 là 24,18m) trong đó có diện tích 165,7m2 bị thu Hi, loại đất trồng cây lâu năm thuộc thửa 2383, tờ bản đồ số 01, đất tọa lạc tại xã M, huyện T và bà Nguyễn Thị Thanh T, ông Lê Long H trả số tiền nhận bồi thường là 121.810.725 đồng.

Bị đơn ông Võ Văn L trình bày: Nguyên vào năm 2003, ông có nhận chuyển nhượng đất của ông Nguyễn Văn N, có địa chính xã M là ông Lại Văn Hiệp đo đạc diện tích 6.460m2, thuộc 02 thửa 52, 53, tờ bản đồ số 01, đất tọa lạc tại xã M, huyện T, tỉnh Đồng Tháp. Hướng Đông giáp đất Huỳnh Chí T, hướng Tây giáp đất ông Nguyễn Vĩnh M, hướng Nam giáp chướng 200 và đất ông Nguyễn Vĩnh T, hướng Bắc giáp tỉnh lộ 846. Diện tích trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là 6.116m2. Năm 2010, ông đã chuyển nhượng cho bà Nguyễn Thị N canh tác cho đến nay. Khi đo đạc lại diện tích là 7.030m 2 đến nay ông N yêu cầu ông trả lại phần diện tích 571,2m2 chênh lệch khi làm giấy ông không đồng ý.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Lê Long H (cũng là người đại diện theo ủy quyền của bà Nguyễn Thị Thanh T, bà Nguyễn Thị N) trình bày: Vào năm 2010, bà Nguyễn Thị N có nhận chuyển nhượng của ông L phần đất thuộc thửa 2383, tờ bản đồ số 01, diện tích 7.030m2, đất tọa lạc tại xã M, huyện T, tỉnh Đồng Tháp. Đông giáp lộ 846, Tây giáp đường thủy lợi, Nam giáp Huỳnh Chí T, Bắc giáp Nguyễn Vĩnh M. Đến năm 2014, bà N làm hợp đồng tặng cho bà T, hợp đồng tặng cho có công chứng, bà T đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Đất vợ chồng ông đang sử dụng và trồng cây từ năm 2014 cho đến nay. Nay ông N yêu cầu vợ chồng ông, bà N trả lại diện tích 571,2m2 không đồng ý.

Tại quyết định bản án dân sự sơ thẩm số: 36/2021/DS-ST ngày 24 tháng 11 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện T xét xử:

Tuyên xử:

1. Đình chỉ một phần yêu cầu của ông Nguyễn Văn N.

2. Không chấp nhận yêu cầu của chị Nguyễn Thị T đại diện ủy quyền của ông Nguyễn Văn N yêu cầu ông Võ Văn L, bà Nguyễn Thị N, bà Nguyễn Thị Thanh T và ông Lê Long H có trách nhiệm trả lại cho ông N phần đất diện tích 571,2m2 (gồm các mốc M1 – M2 là 57,37m; Mốc M2 – M3 là 4,35m; M3 – M10 là 45,3m; M 10 – M1 là 24,18m), loại đất trồng cây lâu năm thuộc thửa 2383, tờ bản đồ số 01, tọa lạc tại xã M, huyện T theo sơ đồ đo đạc ngày 19/11/2019 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện T và bà Nguyễn Thị Thanh T, ông Lê Long H trả số tiền nhận bồi thường là 121.810.725 đồng.

3. Ông Lê Long H, bà Nguyễn Thị Thanh T được tiếp tục sử dụng diện tích 571,2m2 (gồm các mốc M1 – M2 là 57,37m; Mốc M2 – M3 là 4,35m; M3 – M10 là 45,3m; M 10 – M1 là 24,18m), loại đất trồng cây lâu năm thuộc thửa 2383, tờ bản đồ số 01, tọa lạc xã M, huyện T, Đồng Tháp. Trong đó có 165,7m2 đã bị thu Hi công trình mở rộng đường ĐT 846, đoạn M – Bằng Lăng (theo Quyết định số 5862/QĐ-UBND ngày 29/12/2020) đã nhận tiền bồi thường xong.

(Có phụ lục trích đo ngày 19/11/2019 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện T kèm theo).

4. Về án phí:

Ông Nguyễn Văn N phải chịu 7.612.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp là 4.756.700 đồng theo biên lai thu số BN/2013 06968, quyển số 140 ngày 04/10/2016 và biên lai số BI/2019/0011692, quyền số 0234, ngày 19/4/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện T, ông N phải nộp thêm số tiền 2.855.300 đồng.

Ông N phải chịu chi phí xem xét thẩm định 4.033.000 đồng đã thanh lý hợp đồng xong.

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên thời hạn, quyền kháng cáo, quyền và nghĩa vụ, thời hiệu thi hành án của các đương sự.

Sau khi xét xử sơ thẩm ngày 26/11/2021, ông Nguyễn Văn N và bà Nguyễn Thị Đ kháng cáo yêu cầu xem xét chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông N buộc ông Võ Văn L, bà Nguyễn Thị N, bà Nguyễn Thị Thanh T và ông Lê Long H có trách nhiệm trả phần diện tích đất là 405,5m2, thuộc một phần thửa 2383, tờ bản đồ số 01 và số tiền nhận bồi thường của diện tích 165,7m 2 là 121.810.725 đồng.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Chị Nguyễn Thị T là người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Nguyễn Văn N giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và yêu cầu kháng cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị Đ giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.

Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích H pháp của nguyên đơn trình bày: Tòa án cấp sơ thẩm chưa xem xét lời khai của ông L nhận chuyển nhượng diện tích 6.116m2, ông Lại Văn Hiệp là cán bộ địa chính là người đo đất xác nhận là đất của ông N có dư mấy trăm mét, khi đo có xuống trụ đá, phần đất ao trũng còn lại của ông N, ông N chỉ chuyển nhượng thửa 52 – 53, còn thửa 93 không chuyển nhượng. Đến năm 2012, sau khi ông L làm thủ tục chuyển nhượng cho bà N, vợ chồng ông H sử dụng thì ông N phát hiện đã xảy ra tranh chấp. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo sửa bản án sơ thẩm buộc ông L, bà N, bà T và ông H trả lại diện tích đất 405,5m2 và bà T, ông H trả lại số tiền nhận bồi thường 121.810.725 đồng của diện tích 165,7m2.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Tháp phát biểu ý kiến:

Về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án dân sự ở giai đoạn phúc thẩm: Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật về việc thụ lý vụ án, về thời hạn giải quyết vụ án. Tại phiên tòa phúc thẩm, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật. Các đương sự đã thực hiện đúng quyền, nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật.

Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn Văn N và bà Nguyễn Thị Đ, giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số: 36/2021/DS-ST ngày 24 tháng 11 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện T. Tuy nhiên, sửa cách tuyên án: Không chấp nhận yêu cầu của ông Nguyễn Văn N yêu cầu ông Võ Văn L, bà Nguyễn Thị N, bà Nguyễn Thị Thanh T và ông Lê Long H có trách nhiệm trả lại cho ông N phần đất diện tích 405,5m2 (gồm các mốc M1 – M2 là 57,37m; Mốc M2 – M3 là 4,35m; M3 – M10 là 45,3m; M 10 – M1 là 24,18m), loại đất trồng cây lâu năm thuộc thửa 2383, tờ bản đồ số 01, đất tại xã M, huyện T theo sơ đồ đo đạc ngày 19/11/2019 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện T và yêu cầu bà Nguyễn Thị Thanh T, ông Lê Long H trả số tiền nhận bồi thường là 121.810.725 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, phát biểu của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Xét đơn kháng cáo của ông Nguyễn Văn N và bà Nguyễn Thị Đ nộp trong thời hạn luật định và nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm. Căn cứ Điều 273 và Điều 276 của Bộ luật tố tụng Dân sự, xem xét theo thủ tục phúc thẩm.

Mặc dù Tòa án đã triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng chỉ có chị Linh, bà Đ và Luật sư B có mặt, còn lại bị đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vẫn vắng mặt nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử theo luật định.

[2] Về nội dung: Xét kháng cáo của ông Nguyễn Văn N và bà Nguyễn Thị Đ yêu cầu Tòa án phúc thẩm xem xét giải quyết chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông N buộc ông Võ Văn L, bà Nguyễn Thị N, bà Nguyễn Thị Thanh T và ông Lê Long H có trách nhiệm trả phần diện tích đất là 405,5m2, thuộc một phần thửa 2383, tờ bản đồ số 01 và số tiền nhận bồi thường của diện tích 165,7m2 là 121.810.725 đồng.

Hội đồng xét xử xét thấy:

Nguồn gốc đất của ông N tại thửa 52 diện tích 1.551m 2 (LNK), thửa 53 diện tích 4.565m2 (2L) tờ bản đồ số 01 cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 21/12/1993, đất tại xã M, huyện T, tỉnh Đồng Tháp. Ngày 03/12/2003 ông N chuyển nhượng cho ông L hết diện tích 6.116m2, thửa 52, 53, tờ bản đồ số 01, ông L được cấp chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 19/01/2004 gồm thửa 52 diện tích 1.551m2 (LNK), thửa 53 diện tích 4.565m2 (Lúa). Ngày 08/10/2010, ông L đăng ký chuyển đổi mục đích từ đất lúa sang đất LNK thuộc thửa 53, diện tích 4.565m2 và H thửa 52 + 53 thành 01 thửa 2383, diện tích 6.116m2 đất lâu năm khác, sửa sai diện tích là 7.030m2.

Ngày 11/10/2010, ông L chuyển nhượng cho bà Nguyễn Thị N diện tích 7.030m2, thửa 2383, tờ bản đồ số 01, đến ngày 30/3/2015 bà N tặng cho bà Nguyễn Thị Thanh T diện tích là 7.030m2, thửa 2383, tờ bản đồ số 01. Năm 2016, ông N cho rằng chỉ chuyển nhượng cho ông L diện tích được cấp giấy là 6.116m2 phần còn lại trước mặt tiền là mương lộ không có chuyển nhượng nên yêu cầu ông L, bà N, bà T, ông H trả lại đất xảy ra tranh chấp.

Diện tích đất tranh chấp 571,2m2 thuộc một phần tại thửa 2383, tờ bản đồ số 01, loại đất trồng cây lâu năm (gồm các mốc M1 – M2 – M3 – M10 – M1) hiện ông H và bà T đang sử dụng, trong đó có diện tích 165,7m2 đã bị thu Hi công trình mở rộng đường ĐT 846, đoạn M – Bằng Lăng, bà T, ông H nhận tiền bồi thường tổng cộng 121.810.725 đồng (trong đó tiền đất và hổ trợ chuyển đổi nghề N là 99.420.000 đồng và vật kiến trúc và cây trồng là 22.390.725 đồng).

Ông L nhận chuyển nhượng của ông N 02 thửa đất số 52, 53, tờ bản đồ số 01, diện tích 6.116m2, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 03/12/2003 hết thửa 52, 53, năm 2010 ông L nhập thửa, sửa sai diện tích và chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho bà N diện tích 7.030m2, thửa 2383, tờ bản đồ 01, năm 2015 bà N tặng cho bà T. Sau khi chuyển nhượng đất và hoàn thành thủ tục cho ông L, ông N không có ý kiến thủ tục chuyển nhượng, hiện nay bà T, ông H đã sử dụng ổn định xây hàng rào, trồng cây.

Ông N và bà Đ cho rằng chỉ chuyển nhượng diện tích theo giấy chứng nhận là 6.116m2 thì phải làm thủ tục đo đạc đăng ký biến động, ông N giao hết phần đất cho ông L được thể hiện trong hồ sơ chuyển nhượng, ông N, bà Đ không có chứng cứ chứng minh là không chuyển nhượng cho ông L đất giáp lộ 846.

Trong quá trình sử dụng đất của ông L cũng như bà N, bà T, ông H xác định vị trí giáp ranh không thay đổi, xem xét thẩm định tại chỗ diện tích là 6.620,8m2, so với giấy chứng nhận quyền sử dụng cấp cho bà T thiếu 409,2m2.

Tại phiên tòa phúc thẩm chị Linh đại diện của ông N, bà Đ trình bày, khi chuyển nhượng cho ông L có đo đạc và đóng trụ đá từ trong hậu đo ra mặt tiền diện tích 6.116m2 và 04 trụ đá vẫn còn, giáp ranh đất ông M là trụ đá M10 – M9 và giáp ranh đất ông T là trụ đá M3 – M6, qua đo đạc thực tế diện tích 6.049,2m2 là thiếu so với diện tích chị Linh và bà Đ trình bày.

Diện tích đất của ông N được cấp giấy thửa 52, 53 giáp lộ 846, khi chuyển nhượng cho ông L, đất ông N không còn thửa đất nào liền kề và ông L không có phần đất nào giáp ranh, nếu ông L không mua đất giáp (lộ 846) thì không có giá trị. Ông N, bà Đ không cung cấp được giấy tay mua bán hoặc giấy tờ có giao nhận tiền với ông L chỉ chuyển nhượng diện tích 6.116m2 và cũng không đặt vấn đề yêu cầu ông L trả thêm giá trị đất nếu chuyển nhượng có dư diện tích. Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu của ông N là có căn cứ.

Tại phiên tòa phúc thẩm chị Linh đại diện của ông N, bà Đ không cung cấp thêm tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình. Do đó, yêu cầu kháng cáo của ông N và bà Đ là không có căn cứ nên không chấp nhận.

[3] Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu của ông Nguyễn Văn N là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật, giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số:

36/2021/DS-ST ngày 24 tháng 11 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện T . Tuy nhiên, sửa cách tuyên án: Không chấp nhận yêu cầu của ông N yêu cầu ông L, bà N, bà T và ông H có trách nhiệm trả lại cho ông N phần đất diện tích 405,5m2 trong phạm vi các mốc M1 – M2 – M3 – M10 – M1, loại đất trồng cây lâu năm thuộc thửa 2383, tờ bản đồ số 01, đất tại xã M, huyện T, tỉnh Đồng Tháp theo sơ đồ đo đạc ngày 19/11/2019 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện T và yêu cầu bà T, ông H trả số tiền nhận bồi thường là 121.810.725 đồng.

[4] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Tháp, không chấp nhận kháng cáo của ông N và bà Đ là có căn cứ nên chấp nhận.

[5] Xét ý kiến của Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn ông N là không có căn cứ, nên không chấp nhận.

[6] Các phần còn lại của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[7] Do kháng cáo của ông N và bà Đ không được chấp nhận, nên ông N và bà Đ phải chịu án phí dân sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 308 và khoản 1 Điều 148 của Bộ luật Tố tụng Dân sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên Xử:

1. Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Nguyễn Văn N và bà Nguyễn Thị Đ.

2. Giữ nguyên bản án sơ thẩm số: 36/2021/DS-ST ngày 24 tháng 11 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Đồng Tháp.

3. Đình chỉ một phần yêu cầu của ông Nguyễn Văn N.

4. Không chấp nhận yêu cầu của ông Nguyễn Văn N yêu cầu ông Võ Văn L, bà Nguyễn Thị N, bà Nguyễn Thị Thanh T và ông Lê Long H có trách nhiệm trả lại cho ông N phần đất diện tích 405,5m2 trong phạm vi các mốc M1 – M2 – M3 – M10 – M1, loại đất trồng cây lâu năm thuộc thửa 2383, tờ bản đồ số 01, đất tại xã M, huyện T, tỉnh Đồng Tháp theo sơ đồ đo đạc ngày 19/11/2019 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện T và yêu cầu bà Nguyễn Thị Thanh T, ông Lê Long H trả số tiền nhận bồi thường là 121.810.725 đồng.

(Có phụ lục trích đo ngày 19/11/2019 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện T kèm theo).

5. Về án phí: Ông Nguyễn Văn N phải chịu 7.612.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp là 4.758.700 đồng theo biên lai thu số BN/2013 06968, quyển số 140 ngày 04/10/2016 và biên lai số BI/2019/0011692, quyền số 0234, ngày 19/4/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện T, ông N phải nộp thêm số tiền 2.853.300 đồng.

6. Về chi phí tố tụng: Ông Nguyễn Văn N phải chịu chi phí xem xét thẩm định 4.033.000 đồng đã thanh lý hợp đồng xong.

7. Về án phí dân sự phúc thẩm:

Ông Nguyễn Văn N phải chịu 300.000 đồng tiền án phí dân sự phúc thẩm. Được khấu trừ 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí kháng cáo đã nộp theo biên lai thu số 0001748 ngày 07/12/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T, tỉnh Đồng Tháp.

Bà Nguyễn Thị Đ phải chịu 300.000 đồng tiền án phí dân sự phúc thẩm. Được khấu trừ 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí kháng cáo đã nộp theo biên lai 0001749 ngày 07/12/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T, tỉnh Đồng Tháp.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

342
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất và đòi lại tài sản số 175/2022/DS-PT

Số hiệu:175/2022/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đồng Tháp
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 11/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;