Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất số 1763/2020/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 1763/2020/DS-ST NGÀY 05/10/2020 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

hủy một phần giấy chứng nhận Trong các ngày 29 tháng 9 và ngày 05 tháng 10 năm 2020, tại Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 863/2018/TLST-DS ngày 16 tháng 10 năm 2018, về việc tranh chấp quyền sử dụng đất; hủy một phần giấy chứng nhận. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 4354/2020/QĐXXST-DS ngày 18 tháng 8 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa sơ thẩm số 10414/2020/QĐST-DS ngày 16 tháng 9 năm 2020 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, giữa:

Nguyên đơn: Bà Đỗ Thị S, sinh năm 1960.

Địa chỉ: Số 15/1 đường M, khu phố S, phường T, quận Đ, Thành phố Hồ Chí Minh.

Bị đơn: Ông Huỳnh Văn H, sinh năm 1931.

Địa chỉ: Số 15 đường M, khu phố S, phường T, quận Đ, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Phạm Văn C, sinh năm 1982.

Địa chỉ: Số 27 đường M, cư xá L, phường T, quận Đ, Thành phố Hồ Chí Minh.

(Theo Giấy ủy quyền số công chứng 2097 ngày 17/01/2018, lập tại Phòng công chứng B, Thành phố Hồ Chí Minh).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Trần Huy N, sinh năm 1955.

Địa chỉ: Số 15/1 đường M, Khu phố S, phường T, quận Đ, Thành phố Hồ Chí Minh.

2. Bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1934.

Địa chỉ: Số 15 đường M, khu phố S, phường T, quận Đ, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Phạm Văn C, sinh năm 1982.

Địa chỉ: Số 27 đường M, cư xá L, phường T, quận Đ, Thành phố Hồ Chí Minh.

(Theo Giấy ủy quyền số công chứng 39018 ngày 10/11/2018, lập tại Phòng công chứng B, Thành phố Hồ Chí Minh).

3. Bà Nguyễn Búp E, sinh năm 1971.

4. Bà Ngô Thị T, sinh năm 1984.

5. Trẻ Phạm Kim T, sinh năm 2013.

Người đại diện theo pháp luật của trẻ Phạm Kim T: Bà Ngô Thị T, sinh năm 1984 – mẹ ruột.

Ông Phạm Văn C, sinh năm 1982 – cha ruột.

Cùng địa chỉ: Số 15 đường M, khu phố S, phường T, quận Đ, Thành phố Hồ Chí Minh.

6. Tổng Công ty Điện lực N.

Tên trước đây là Công ty Điện lực H.

Địa chỉ: Số 72 đường T, phường N, quận M, Thành phố Hồ Chí Minh.

7. Công ty TNHH MTV Dịch vụ Công ích quận Đ.

Địa chỉ: Số 11 đường T, phường T, quận Đ, Thành phố Hồ Chí Minh. Người đại diện theo ủy quyền: Bà Đặng Ngọc T, sinh năm 1965. (Theo Giấy ủy quyền số 03/GUQ-DVCI ngày 18/6/2020).

8. Ủy ban nhân dân quận Đ, Thành phố Hồ Chí Minh.

Địa chỉ: Số 43 đường B, phường T, quận Đ, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo ủy quyền: Bà Nguyễn Thị Thanh N – chuyên viên Phòng Tài nguyên và Môi trường.

(Theo Văn bản ủy quyền số 5801/UQ-UBND ngày 19/12/1208 của Ủy ban nhân dân quận Đ).

NHẬN THẤY

Nguyên đơn – bà Đỗ Thị S trình bày tại Đơn khởi kiện ngày 01/11/2017, bản khai, bản tự khai trong quá trình giải quyết vụ án như sau:

Nhà đất tại địa chỉ Số 15/1 cư xá L, đường M, khu phố S, phường T, quận Đ, Thành phố Hồ Chí Minh do Công ty Điện Lực H thuộc Bộ Điện và Than (nay là Bộ Công thương) bố trí cho gia đình nguyên đơn sử dụng từ năm 1983. Sau đó, vào khoảng năm 2007, vợ chồng nguyên đơn là ông Trần Huy N và bà Đỗ Thị S bắt đầu thực hiện thủ tục mua hóa giá nhà đất trên với giá 67,000,000 đồng. Ngày 22/7/2010, vợ chồng nguyên đơn được Ủy ban nhân dân quận Đ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số vào sổ cấp GCN: CH00343 đối với diện tích đất 133.49m2.

Năm 2002, bị đơn đã xây dựng nhà lấn qua phần đất gia đình bà và đã được địa phương giải quyết tranh chấp theo Tờ tường trình có xác nhận của Tổ trưởng Tổ dân phố 7, khu phố S lập ngày 01/5/2002 và bị đơn cam đoan khi nào nhà nguyên đơn xây dựng sẽ tháo dỡ phần xây dựng lấn chiếm và trả lại đất. Hiện nay gia đình nguyên đơn có nhu cầu xây dựng ở phần đất mà bị đơn đã lấn chiếm và đề nghị tháo dỡ phần nhà đã lấn, trả lại đất nhưng bị đơn không đồng ý.

Nguyên đơn khởi kiện, yêu cầu ông Huỳnh Văn H trả diện tích đã lấn chiếm của nguyên đơn là 2.5 m2 theo Bản đồ hiện trạng vị trí – xác định ranh do Trung tâm đo đạc bản đồ thuộc Sở tài nguyên và Môi trường Thành phố Hồ Chí Minh lập ngày 30/8/2018 (gọi tắt Bản đồ hiện trạng ngày 30/8/2018). Nay nguyên đơn xác định yêu cầu khởi kiện là:

1. Yêu cầu ông Huỳnh Văn H tháo dỡ phần xây dựng trên đất lấn chiếm và trả lại phần đất đã lấn chiếm có diện tích khoảng 2.5m2, hình tam giác có chiều dài các cạnh lần lượt là 1.06; 4.28; 4.53 tại vị trí phía cuối của thửa đất thuộc thửa 336, tờ bản đồ số 46 tọa lạc tại Số 15/1 cư xá L, đường M, khu phố S, phường T, quận Đ, Thành phố Hồ Chí Minh (theo Bản đồ hiện trạng ngày 30/8/2018).

2. Hủy một phần Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở hồ sơ gốc số 242/2007/GCN ngày 19/11/2007 do Ủy ban nhân dân quận Đ cấp cho ông Huỳnh Văn H và bà Nguyễn Thị L do đã chồng lấn phần diện tích khoảng 2.5m2 như đã nêu trên. Đồng thời bà xác định phần đất tranh chấp có diện tích khoảng 2.5m2 nêu trên có giá là 80,000,000 đồng (tám mươi triệu đồng).

Bị đơn – ông Huỳnh Văn H có ông Phạm Văn C đại diện ủy quyền trình bày:

Năm 1975, bị đơn làm việc tại nhà máy nhiệt điện Thủ Đức và được cấp nhà Số 15 (số cũ F1A) cư xá L, đường M, khu phố S, phường T, quận Đ. Đến năm 1988, bị đơn xin chính quyền xây phần đất phía sau của ông để cho con gái ở và đến nay bị đơn không sửa chữa, xây dựng thêm hạng mục nào khác. Hiện tại phần đất đang tranh chấp đã được xây dựng từ năm 1988.

Năm 2006, Hội đồng bán nhà ở quận Đ đến đo vẽ hiện trạng ranh giới mốc và được ông Trần Huy N ký vào bản vẽ hiện trạng và đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 2007.

Hiện nay, phần đất đang tranh chấp do ông Huỳnh Văn H đang quản lý, sử dụng làm bếp và nhà vệ sinh; đã xây tường gạch bao quanh, lợp tôn đúng theo Biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 04/5/2018 của Tòa án nhân dân quận Đ, và cho hộ ông Phạm Văn C gồm ông Phạm Văn C, vợ - bà Ngô Thị T và con - trẻ Phạm Kim T (2003) thuê lại 1/3 căn nhà Số 15 cư xá L, đường M, Khu phố S, phường T, quận Đ.

Bị đơn không đồng ý yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, nhưng xác định diện tích tranh chấp có giá trị là 80,000,000 đồng (tám mươi triệu đồng) và đồng ý diện tích hiện đang tranh chấp theo Bản đồ hiện trạng ngày 30/8/2018.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan – Công ty TNHH MTV Dịch vụ Công ích quận Đ có bà Đặng Ngọc T đại diện ủy trình bày:

Căn nhà Số 15 (số cũ F1A) cư xá L, đường M, Khu phố S, phường T, quận Đ có nguồn gốc thuộc sở hữu Nhà nước. Năm 2006, Hội đồng bán nhà ở quận Đ đồng ý bán nhà ở và chuyển nhượng quyền sử dụng đất căn nhà trên cho ông bà Huỳnh Văn H – Nguyễn Thị L (Quyết định số 438/QĐ-UBND ngày 19/10/2006 của Ủy ban nhân dân quận Đ), đã hoàn thành xong nghĩa vụ tài chính. Ngày 19/11/2007, Ủy ban nhân dân quận Đ cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 242/2007/GCN công nhận diện tích đất ở 139.64m2, diện tích xây dựng 45.71m2 cho ông bà Huỳnh Văn H – Nguyễn Thị L thuộc Thửa số 312, Tờ bản đồ số 94.

Căn nhà Số 15/1 (số cũ F1B) cư xá L, đường M, khu phố S, phường T, quận Đ có nguồn gốc thuộc sở hữu Nhà nước. Năm 2006, Hội đồng bán nhà ở quận Đ đồng ý bán nhà ở và chuyển nhượng quyền sử dụng đất căn nhà trên cho ông bà Trần Huy N – Đỗ Thị S (Quyết định số 130/QĐ-UBND ngày 01/06/2006 của Ủy ban nhân dân quận Đ), đã hoàn thành xong nghĩa vụ tài chính. Ngày 22/7/2010, Ủy ban nhân dân quận Đ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BC 453933 công nhận diện tích đất ở 133.49m2, diện tích xây dựng 60.98m2 cho ông bà Trần Huy N – Đỗ Thị S thuộc Thửa số 336, Tờ bản đồ số 94.

Qua kiểm tra bảng liệt kê tọa độ góc ranh thì thửa số 312 và thửa số 336 chồng lấn ranh diện tích khoảng 2.39m2. Theo Bản vẽ hiện trạng do Công ty TNHH thương mại dịch vụ đo đạc Hoàng Anh Anh lập ngày 26/9/2005 thì ranh giới giữa nhà F1B và F1A là ranh thẳng (có chữ ký xác nhận của Công ty Điện lực H; Công ty Công trình giao thông và Quản lý nhà Thủ Đức; ông Trần Huy N; ông Huỳnh Văn H).

Như vậy Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 242/2007/GCN cho ông bà Huỳnh Văn H – Nguyễn Thị L chưa đúng theo ranh giới bàn giao giữa Công ty Điện lực H với Công ty Công trình giao thông và Quản lý nhà Thủ Đức; có chữ ký xác nhận của ông Trần Huy N; ông Huỳnh Văn H. Do đó, Công ty TNHH MTV Dịch vụ Công ích quận Đ đề nghị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử vụ kiện dân sự của bà Đỗ Thị S theo quy định pháp luật. Căn cứ Bản án có hiệu lực pháp luật, Công ty TNHH MTV Dịch vụ Công ích quận Đ sẽ lập thủ tục hoàn trả nghĩa vụ tài chính theo quy định. Đồng thời bà Đặng Ngọc T có đơn xin vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan – Tổng Công ty Điện lực N (tên trước đây là Công ty Điện lực H) có Văn bản số 4928/EVN SPC-VP ngày 15/6/2020 trình bày ý kiến như sau:

Nguồn gốc: Khu cư xá L thuộc phường T, quận Đ được Tổng Công ty Điện lực N tiếp quản sau ngày 30/4/1975 và sau đó được kiểm kê, đưa vào quản lý tài sản gồm: khu nhà song lập E, F, D và cao ốc A, C, D (khi tiếp quản không có hồ sơ gốc và bản vẽ của các khu nhà trên). Các khu nhà này trước đây được bố trí cho CBCNV ngành Điện gồm: Công ty Xây lắp đường dây và Trạm 2, Công ty Truyền tải điện 4, Nhà máy điện Thủ Đức, Công ty Cơ điện Thủ Đức, Trung tâm điều độ hệ thống điện miền Nam, Công ty Điện lực H,… sử dụng làm nhà ở.

Quá trình sử dụng và bàn giao: Qua trích lục hồ sơ lưu trữ, danh sách CBCNV được cấp nhà tại khu cư xá L, phường T, quận Đ (Lô F cư xá song lập) thể hiện:

- Căn nhà số F1A được Tổng cục Điện lực cấp cho ông Huỳnh Văn H theo Quyết định số 321 TCTĐL ngày 21/10/1975.

- Căn nhà số F1B được cấp cho ông Trần Huy N theo Quyết định số 626 ĐL-ĐLII ngày 24/4/1984.

Năm 2003, Tổng công ty Điện lực N thực hiện chuyển giao nhà theo Nghị định 61/CP của Thủ tướng Chính phủ, đã hoàn tất việc bàn giao cho ngành nhà đất Thành phố Hồ Chí Minh quản lý toàn bộ khu Cư xá L quận Đ, trong đó đã bàn giao khu cư xá song lập F (có căn nhà F1A và F1B) theo Quyết định số 1243/QĐ-UB ngày 01/4/2003 của Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh và Văn bản số 2729/ĐCNĐ-QLN ngày 21/4/2003 của Sở Địa chính – Nhà đất tiếp nhận quỹ nhà của Công ty Điện lực H chuyển giao.

Biên bản tiếp nhận căn nhà F1A được ký lúc 08g00 ngày 12/8/2005 giữa 03 bên gồm: bên giao là Công ty Điện lực 2, bên nhận là Công ty CTGT – Đô thị & Quản lý nhà Thủ Đức và chủ hộ là ông Huỳnh Văn H.

Biên bản tiếp nhận căn nhà F1B được ký lúc 11g 00 ngày 12/8/2005 giữa 03 bên gồm: bên giao là Công ty Điện lực H, bên nhận là Công ty CTGT – Đô thị & Quản lý nhà Thủ Đức và chủ hộ là ông Trần Huy N.

Biên bản tiếp nhận quỹ nhà ở thuộc cư xá L do Công ty Điện lực H chuyển giao thuộc khu phố S, phường T, quận Đ (Đợt 2 Lô C (chung cư) và cư xá E, D, F) được ký lúc 10g00 ngày 03/10/2005 giữa Công ty Điện lực 2 và Công ty CTGT – Đô thị & Quản lý nhà Thủ Đức.

Ngày 04/11/2005, Công ty Điện lực 2 và Công ty CTGT – Đô thị & Quản lý nhà Thủ Đức đã ký vào biên bản giao nhận tài sản cố định, chính thức hoàn tất việc bàn giao và tiếp nhận toàn bộ khu Cư xá L quận Đ.

Như vậy, tính đến cuối năm 2005, Tổng công ty Điện lực N đã chuyển giao hoàn tất toàn bộ các khu nhà thuộc Cư xá L quận Đ cho ngành nhà đất Thành phố Hồ Chí Minh và không còn quản lý bất cứ khu nhà ở, đất ở nào tại khu cư xá L này. Hiện Tổng công ty Điện lực N không còn quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến việc tranh chấp quyền sử dụng đất của 02 hộ nói trên nên kính mong Quý Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xem xét chấp thuận để Tổng Công ty Điện Lực N được phép không tham dự phiên tòa xét xử.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan – ông Trần Huy N có đơn xin vắng mặt nhưng tại Biên bản hòa giải ngày 02/4/2019, ông trình bày: Ông là chồng của nguyên đơn, đồng ý và thống nhất với toàn bộ ý kiến trình bày của nguyên đơn; ông không có ý kiến và yêu cầu độc lập nào khác.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan – bà Nguyễn Thị L có ông Phạm Văn C đại diện ủy quyền trình bày: Bà Nguyễn Thị L là vợ của bị đơn. Bà thống nhất với toàn bộ ý kiến trình bày của bị đơn, bà không có ý kiến và yêu cầu độc lập nào khác.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan – bà Ngô Thị T đồng thời là người đại diện theo pháp luật của trẻ Phạm Kim T có đơn xin vắng mặt nhưng tại bản khai, bà trình bày ý kiến như sau: Từ tháng 12/2012, gia đình bà bắt đầu thuê nhà của ông Huỳnh Văn H để ở cho đến nay. Trong thời gian sinh sống tại căn nhà này, gia đình bà không sửa chữa. Bà đồng ý với toàn bộ ý kiến với ông Phạm Văn C. Đồng thời do bận việc tại cơ quan nên bà yêu cầu vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan – Ủy ban nhân dân quận Đ, Thành phố Hồ Chí Minh trình bày ý kiến tại Văn bản số 1977/UBND-TNMT ngày 15/05/2020 như sau:

Căn nhà Số 15 (số cũ F1A) cư xá L, đường M, Khu phố S, phường T, quận Đ có nguồn gốc thuộc sở hữu Nhà nước. Năm 2006, Hội đồng bán nhà ở quận Đ đồng ý bán nhà ở và chuyển nhượng quyền sử dụng đất căn nhà trên cho ông bà Huỳnh Văn H - Nguyễn Thị L (Quyết định số 438/QĐ-UBND ngày 19 tháng 10 năm 2006 của Ủy ban nhân dân quận Đ). Ông Huỳnh Văn H, bà Nguyễn Thị L đã hoàn thành nghĩa vụ tài chính.

Ngày 19 tháng 11 năm 2007, Ủy ban nhân dân quận Đ cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 242/2007/GCN công nhận diện tích đất ở 139.64m², diện tích xây dựng 45.71m2 cho ông bà Huỳnh Văn H – Nguyễn Thị L thuộc thửa số 312, tờ bản đồ số 94.

Căn nhà Số 15/1 (số cũ F1B) cư xá L, đường M, Khu phố S, phường T, quận Đ có nguồn gốc thuộc sở hữu Nhà nước. Năm 2006, Hội đồng bán nhà ở quận Đ đồng ý bán nhà ở và chuyển nhượng quyền sử dụng đất căn nhà trên cho ông bà Trần Huy N - Đỗ Thị S (Quyết định số 130/QĐ-UBND ngày 01 tháng 6 năm 2006 của Ủy ban nhân dân quận Đ). Ông Trần Huy N, bà Đỗ Thị S đã hoàn thành nghĩa vụ tài chính.

Ngày 22 tháng 7 năm 2010, Ủy ban nhân dân quận Đ cấp Giấy chứng nhận quyền quyền sử dụng đất, quyển sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BC 453933 công nhận diện tích đất ở 133.49m², diện tích xây dựng 60.98m² cho ông bà Trần Huy N – Đỗ Thị S thuộc thửa số 336, tờ bản đồ số 94.

Qua kiểm tra bảng liệt kê tọa độ góc ranh, thì thửa số 312 và thửa số 336 chồng lấn ranh diện tích khoảng 2.3m2. Theo Bản vẽ hiện trạng do Công ty TNHH thương mại dịch vụ đo đạc Hoàng Anh Anh lập ngày 26 tháng 9 năm 2005 thì ranh giới giữa nhà số F1B và nhà số F1A là ranh thẳng (có chữ ký xác nhận của Công ty điện lực H; Công ty công trình giao thông và Quản lý nhà Thủ Đức; ông Trần Văn N; ông Huỳnh Văn H).

Như vậy, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 242/2007/GCN cấp ngày 19 tháng 11 năm 2007 cho Huỳnh Văn H – Nguyễn Thị L chưa đúng theo ranh giới bàn giao giữa của Công ty điện lực H với Công ty công trình giao thông và Quản lý nhà Thủ Đức; có chữ ký xác nhận ông Trần Văn N; ông Huỳnh Văn H. Do đó, Ủy ban nhân dân quận Đ đề nghị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử vụ kiện dân sự của bà Đỗ Thị S theo quy định của pháp luật. Căn cứ Bản án có hiệu lực pháp luật, Ủy ban nhân dân quận Đ sẽ lập thủ tục hoàn trả nghĩa vụ tài chính theo quy định.

Tại phiên Tòa nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, các bên đương sự không tự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án.

Đại diện bị đơn thừa nhận có lấn một phần diện tích nhưng không phải diện tích 2.5m2 như yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; Căn cứ theo Bản đồ hiện trạng vị trí – xác định ranh do Trung tâm đo đạc bản đồ thuộc Sở tài nguyên và Môi trường Thành phố Hồ Chí Minh lập ngày 30/8/2018, thì diện tích tương đương theo đường thẳng ranh của Giấy chứng nhận cấp cho nguyên đơn là 0.9m2 (gồm vị trí 21 và 22), nhưng yêu cầu giữ nguyên hiện trạng, bị đơn sẽ trả bằng tiền tương đương với số tiền là 40,000,000 đồng.

Nguyên đơn nêu trước đây do không trực tiếp đo vẽ, nên không thể xác định được diện tích cụ thể là bao nhiêu. Diện tích trước đây từng yêu cầu lên đến 6.5m2 là bao gồm diện tích đất cống ở giữa hai nhà chưa được cấp giấy chứng nhận. Nay căn cứ Bản đồ hiện trạng ngày 30/8/2018 và trình bày của bị đơn tại Tòa hôm nay, nguyên đơn thống nhất về vị trí và diện tích như trình bày của bị đơn là 0.9m2 (có vị trí 21 và 22) nhưng không đồng ý nhận tiền mà buộc bị đơn trả lại đất với lý do để cho toàn bộ đất của nguyên đơn ngay thằng, thuận tiện cho việc xây dựng.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa có ý kiến như sau:

Về tố tụng: Thẩm phán và Hội đồng xét xử sơ thẩm đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự trong việc xác định quan hệ tranh chấp, thu thập chứng cứ, hòa giải, xét xử. Các đương sự được thực hiện đầy đủ các quyền của mình, phiên tòa được thực hiện đúng trình tự.

Về nội dung: Đề nghị chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào ý kiến của các đương sự tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:

Về tố tụng:

[1] Thẩm quyền giải quyết vụ án: Tài sản tranh chấp là diện tích đất theo Bản đồ hiện trạng vị trí ngày 30/8/2018; đồng thời yêu cầu hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bị đơn liên quan đến diện tích tranh chấp tại địa chỉ Số 15 cư xá L, đường M, khu phố S, phường T, quận Đ, Thành phố Hồ Chí Minh. Do đó, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh theo quy định tại Điều 34; Điều 37; điểm c khoản 1 Điều 39 Bộ Luật Tố tụng Dân sự.

[2] Quan hệ tranh chấp: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn tháo đỡ nhà trà lại đất bị lấn chiếm, đồng thời yêu cầu hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bị đơn liên quan đến diện tích tranh chấp. Do đó, xác định quan hệ tranh chấp quyền sử dụng đất, hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, theo quy định tại khoản 2 Điều 26 Bộ Luật Tố tụng dân sự; Điều 176 Bộ luật dân sự 2015.

Về nội dung:

[3] Nguyên đơn và bị đơn thống nhất phần đất tranh chấp có diện tích 0.9m2, tại vị trí 21 và 22 theo Bản đồ hiện trạng vị trí ngày 30/8/2018. Tuy nhiên, bị đơn yêu cầu được giữ nguyên hiện trạng và trả lại bằng giá trị tương đương với số tiền 40,000,000 đồng, nhưng không được nguyên đơn đồng ý. Do đó, vấn đề Hội đồng xét xử cần đặt ra là việc nguyên đơn yêu cầu bị đơn phải tháo dỡ tài sản đang xây dựng trên phần diện tích bị lấn chiếm, trả lại đất cho nguyên đơn là có cơ sở để giải quyết yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

[4] Căn cứ Bản đồ hiện trạng vị trí ngày 30/8/2018, thì diện tích đất tranh chấp hai bên đương sự thống nhất có vị trí 21 và 22, hiện do bị đơn đang quản lý sử dụng có hình tam giác nhọn. Nếu tiếp tục giữ nguyên hiện trạng sẽ gây ảnh hưởng đến hình dáng khu đất, nguyên đơn nêu lấy lại để cho khuôn viên đất thẳng, xây dựng thẩm mỹ hơn là chính đáng, cần buộc bị đơn trả lại là phù hợp. Do đó chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

[5] Về án phí dân sự sơ thẩm: Nguyên đơn không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm, do được chấp nhận toàn bộ yêu cầu.

[6] Bị đơn ông Huỳnh Văn H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm, nhưng có đơn xin miễn án phí và thuộc trường hợp người cao tuổi, nên được miễn toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[7] Về lệ phí Tòa án là chi phí đo vẽ do nguyên đơn tạm ứng trước theo 02 Hóa đơn giá trị gia tăng với số tiền 4,688,530 đồng + 1,319,472 đồng = 6,008,002 đồng. Do nguyên đơn đươc chấp nhận yêu cầu, cần buộc bị đơn phải chịu toàn bộ và trả lại số tiền 6,008,002 đồng cho nguyên đơn.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 2, khoản 3 Điều 26, khoản 3 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 37 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Đỗ Thị S.

1. Buộc ông Huỳnh Văn H, bà Nguyễn Thị L và những người đang cư trú gồm ông Phạm Văn C, bà Ngô Thị T, bà Nguyễn Búp E, trẻ Phạm Kim T, có trách nhiệm tháo dỡ toàn bộ phần tài sản xây dựng trên phần diện tích 0.9m2 đất để trả cho bà Đỗ Thị S và ông Trần Huy N toàn bộ diện tích 0.9m2 đất tại vị trí 21 và 22 theo Bản đồ hiện trạng vị trí – xác định ranh do Trung tâm đo đạc bản đồ thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố Hồ Chí Minh lập ngày 30/8/2018.

2. Hủy một phần Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở hồ sơ gốc số 242/2007/GCN ngày 19/11/2007 do Ủy ban nhân dân quận Đ cấp cho ông Huỳnh Văn H và bà Nguyễn Thị L do đã chồng lấn phần diện tích tương ứng 0.9m2 tại vị trí 21 và 22 theo Bản đồ hiện trạng vị trí – xác định ranh do Trung tâm đo đạc bản đồ thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố Hồ Chí Minh lập ngày 30/8/2018.

3. Ủy ban nhân dân quận Đ và các Cơ quan có thẩm quyền về việc cấp lại, đổi, cập nhật biến động trên Giấy chứng nhận quyền sử đất theo quy định của pháp luật, có nghĩa vụ hủy bỏ diện tích 0.9m2 tương ứng vị trí theo Bản đồ hiện trạng vị trí – xác định ranh do Trung tâm đo đạc bản đồ thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố Hồ Chí Minh lập ngày 30/8/2018 trên Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở hồ sơ gốc số 242/2007/GCN ngày 19/11/2007 do Ủy ban nhân dân quận Đ cấp cho ông Huỳnh Văn H và bà Nguyễn Thị L.

4. Án phí dân sự sơ thẩm:

Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Đỗ Thị S không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm, do được chấp nhận yêu cầu, được nhận lại số tiền 2,000,000 đồng (hai triệu đồng) theo Biên lai tạm ứng án phí lệ phí số AA/2017/0037541 ngày 16/11/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Đ.

Bị đơn ông Huỳnh Văn H không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

Bị đơn ông Huỳnh Văn H và bà Nguyễn Thị L có nghĩa vụ liên đới trả lại số tiền 6,008,002 đồng (sáu triệu, không trăm lẻ tám nghìn, không trăm lẻ hai đồng) là tiền lệ phí Tòa án.

5. Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

6. Quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án; đối với các đương sự không có mặt tại phiên toà hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo được tính từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

248
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất số 1763/2020/DS-ST

Số hiệu:1763/2020/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 05/10/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;