Bản án về tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ số 56/2025/KDTM-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 56/2025/KDTM-PT NGÀY 21/05/2025 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ

Ngày 21 tháng 5 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử phúc thẩm công khai vụ án kinh doanh thương mại thụ lý số 17/2025/TLPT-KDTM ngày 10 tháng 02 năm 2025 về việc “Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ" Do Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số: 263/2024/KDTM-ST ngày 20/9/2024 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 2959/2025/QĐPT ngày 24 tháng 4 năm 2025 giữa các đương sự.

Nguyên đơn: Công ty TNHH D; Địa chỉ: 1 T, Khu phố C, phường B, Thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo uỷ quyền: Bà Bùi Thị Lệ H, địa chỉ: L.OT12 Vinhomes C. G Đ, Phường B, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh. Có mặt.

Bị đơn: Công ty Cổ phần D: Địa chỉ: 1 D, phường T, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Trần Quang K, địa chỉ: Số Ẹ H, Phường A, quận P. Thành phố Hồ Chí Minh. Có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Công ty Cổ phần C; Địa chỉ: Khu tập thể B, tổ C, phường P, quận H, Thành phố Hà Nội.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Lê Văn HI, địa chỉ số F G, phường T, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh. Vắng mặt.

- Người kháng cáo: Nguyên đơn - Công ty TNHH D.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 10/6/2014, Công ty TNHH D là nguyên đơn trình bày:

Công ty TNHH D (Công ty D) là chủ sở hữu nhân hiệu "Seftra” theo giấy chứng nhận đăng ký nhân hiệu số 81173 được Cục sở hữu trí tuệ cấp ngày 16/4/2007 bảo hộ cho sản phẩm được thuộc nhóm 05 hiện đang có hiệu lực trên toàn lãnh thổ Việt Nam.

Theo các tài liệu, chứng cứ mà Công ty D thu thập được, Công ty Cổ phần D (Công ty D) đã có hành vi tàng trữ, buôn bán, quảng cáo sản phẩm thực phẩm chức năng gắn dấu hiệu "Sextra” do Công ty Cổ phần C (Công ty C) nhập khẩu và phân phối. Công ty D đã quảng cáo sản phẩm này trên trang web của Công ty tại địa chỉ:http://duocthienan.com/p/9543-setra-for-her-danh-cho-nu-nhap-khau-tu-my.htlmhttp://duocthienan.com/p/617-setra-danh-cho-nam-hang-nhap-khau-tu-my.htlm Tất cả các sản phẩm mang dấu hiệu “Sextra” mà Công ty D tàng trữ, buôn bán, quảng cáo đều được nhập từ Công ty C, trong khi đó Công ty C đã có hành vì sử dụng các dấu hiệu SEXtra và SEXTRA để gần lên bao bì sản phẩm, giấy tử, giao dịch trong hoạt động kinh doanh, trên phương tiện quảng cáo, phương tiện kinh doanh và trên các tài liệu khác liên quan đến việc nhập khẩu, tàng trữ, quảng cáo để bán sản phẩm. Hành vi này của Công ty C bị coi là hành vi xâm phạm quyền đối với nhân hiệu “Seftra" đang được bảo hộ của Công ty D theo quy định tại Điều 129.1 (c) Luật SHTT và Điều 11.3 Nghị định 105/2006/NĐ-CP sửa đổi.

Hành vi xâm phạm quyền đối với nhân hiệu “Seftra” nêu trên của Công ty C đã được V trí tuệ kết luận tại Bản kết luận giảm định số NH216-13YC/KLGD ngày 04/9/2013. Cụ thể là:

+ "Dấu hiệu " SEXtra" được trình bày trên vỏ gói sản phẩm được thảo do Công ty Cổ phần C nhập khẩu và phân phối bị coi là yếu tố xâm phạm quyền đổi với nhãn hiệu SEFTRA được bảo hộ theo GCNĐKNH số 81173 của Công ty TNHH D".

+ “Dấu hiệu " SEXtra" được trình bày trên tờ giới thiệu sản phẩm dược thảo do Công ty Cổ phần C nhập khẩu và phân phối bị coi là yếu tố xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu SEFTRA được bảo hộ theo GCNĐKNH số 81173 của Công ty TNHH D".

Công ty D đã khởi kiện Công ty C để yêu cầu bồi thường thiệt hại do hành vi xâm phạm trên, vụ án đang được Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội thụ lý giải quyết.

Ngoài ra, UBND quận T đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 23/QĐ-XPVPHC ngày 20/01/2014 đối với hành vi bản hàng hóa xâm phạm quyền đối với nhân hiệu SEFTRA của Công ty D.

Như vậy, khẳng định rằng, Công ty D đã có hành vi vi phạm quyền đối với nhân hiệu SEFTRA của Công ty D. Công ty D yêu cầu:

+ Buộc Công ty D phải chấm dứt ngay lập tức hành vi xâm phạm quyền đối với nhân hiệu SEFTRA của Công ty D;

+ Buộc Công ty D phải xin lỗi, cải chính công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng (cụ trên trên 03 đầu báo) trong 03 kỳ liên tiếp:

+ Buộc Công ty D phải bồi thường thiệt hại là 1.550.000.000 đồng, gồm các khoản sau:

- Khoản lợi nhuận bất hợp pháp mà Công ty D thu được từ hành vi xâm phạm quyền là 800.000.000 đồng;

- Tổn thất về cơ hội kinh doanh gây ra cho Công ty D là 300.000.000 đồng, - Chi phí thuê Luật sư là 450.000.000 đồng.

Tại đơn sửa đổi bổ sung yêu cầu khởi kiện ngày 20/02/2024, Công ty D xin rút lại các yêu cầu khởi kiện sau:

- Buộc Công ty D phải chấm dứt ngay lập tức hành vi quảng cáo, tàng trữ, buôn bán sản phẩm thực phẩm chức năng gắn dấu hiệu “SEXTRA của Công ty D:

- Buộc Công ty D phải xin lỗi, cải chỉnh công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng (cụ thể là xin lỗi trên 03 đầu bảo do Công ty D chỉ định trong 03 số liên tiếp);

Xác định lại yêu cầu bồi thường thiệt hại số tiền 706.426.000 đồng, gồm các khoản:

- Lợi nhuận bất hợp pháp mà Công ty D thu được từ hành vi xâm phạm quyền, số tiền là 233.926.000 đồng, - Phí luật sư mà Nguyên đơn phải trả số tiền là 472.500.000 đồng:

Tại các bản giải trình và trong quá trình tố tụng tại tòa, người đại diện hợp pháp của Công ty Cổ phần D trình bày:

Hiện nay Công ty D không quảng cáo, tàng trữ, mua bản các sản phẩm gắn nhãn hiệu “SEXtra & hinh";

Việc kinh doanh các sản phẩm “SEXtra & hình" trước đây của Công ty D tuân thủ đúng các quy định pháp luật vì việc kinh doanh các sản phẩm "SEXtra & hình" có đầy đủ Hợp đồng mua bán, hóa đơn, chứng từ giữa Công ty C (bên bán) và Công ty D (bên mua); Sản phẩm "SEXtra & hình" có nguồn gốc hợp pháp, rõ ràng đã được Nhà sản xuất là Công ty R (US H) đăng ký bảo hộ độc quyền nhãn hiệu theo Đăng ký số 4,057,608 tại Hoa Kỳ và được Cục Q (FDA) cấp Giấy chứng nhận lưu hành; Sản phẩm "SEXtra & hình" đã được Công ty C đăng ký lưu hành và quảng cáo tại Cục A, Bộ Y theo đúng quy định hiện hành của pháp luật: Nhân hiệu “SEXtra & hình" đã được Nhà sản xuất là Công ty R. 1, Hoa Kỳ, nộp đơn đăng ký bảo hộ nhãn hiệu tại Cục 5 ngày 13/02/2012 theo Đơn số 4-2012-02028.

Việc Nguyên đơn dựa trên Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với việc kinh doanh 01 gói sản phẩm gồm 01 viên thực phẩm chức năng gắn nhân hiệu SEXTRA trị giá 120.000 đồng đã bị tiêu hủy để yêu cầu Công ty D bối thường thiệt hại là không có cơ sở pháp luật.

Ngày 10/3/2014, Thanh tra Bộ K1 đã ra Thông báo số 80/TTra-P3 về việc dừng thủ tục xử lý vi phạm liên quan đến nhân hiệu SEXtra bị coi là xâm phạm nhân hiệu SEFtra của Công ty D. Vì vậy, đề nghị Tòa án không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Tại bản tự khai ngày 06/10/2014, người đại diện hợp pháp của Công ty Cô phần C trình bày:

Công ty C được biết việc kiện của Công ty D đối với Công ty D theo thông báo thụ lý số 114 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Công ty C xin cung cấp một số thông tin như sau:

Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội đang giải quyết vụ án dân sự thụ lý số 60/TB-TLVA ngày 06/03/2014 về “tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ" cùng liên quan đến nhân hiệu “SEXtra” và SEFtra" giữa Công ty D là nguyên đơn và Công ty C là bị đơn cùng với đơn phản tố của Công ty C.

Công ty C cho rằng cùng 1 sự việc hai Tòa án tại Hà Nội và TP. cùng xem xét, xét xử cùng một vụ việc đối với hai bên là Công ty D và Công ty C có thể gây ra sự chồng chéo về thẩm quyền và không thống nhất trong việc áp dụng pháp luật. Căn cứ quy định tại khoản 4 Điều 189 Bộ luật Tố tụng dân sự, Công ty C đề nghị Tòa án TP ra quyết định tạm đình chỉ vụ án để chờ kết quả giải quyết vụ án của Tòa án Thành phố Hà Nội. Công ty C khẳng định không xâm phạm nhân hiệu “Seftra” của Công ty D, đồng thời cũng đã phản tố về việc Công ty D xâm phạm nhân hiệu “Sextra” của Công ty C.

Công ty C đã được Tòa án tống đạt hợp lệ Thông báo về phiên họp tiếp cận, công khai chứng cử và hòa giải nhưng Công ty C vắng mặt. Căn cứ khoản 1 Điều 207 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án không tiến hành hòa giải được nên đưa vụ án ra xét xử.

Tại Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 263/2024/KDTM-ST ngày 20/9/2024, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh quyết định:

Căn cứ vào khoản 2 Điều 30, điểm a khoản 1 Điều 37, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 1 Điều 147, Điều 244, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Điều 6, Điều 124, Điều 129, Điều 203, Điều 204, Điều 205 Luật sở hữu trítuệ năm 2005, sửa đổi bổ sung năm 2009; Điều 585 Bộ luật Dân sự, Khoản 3 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thưởng vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Tuyên xử 1. Đình chỉ các yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH D, như sau:

- Buộc Công ty Cổ phần D phải chấm dứt ngay lập tức hành vi quảng cáo, tàng trữ, buôn bán sản phẩm thực phẩm chức năng gắn dấu hiệu "SEXTRA của Công ty TNHH D;

- Buộc Công ty Cổ phần D phải xin lỗi, cải chính công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng.

2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH D đòi Công ty Cổ phần D bồi thường thiệt hại số tiền 706.426.000 đồng, gồm các khoản: Thiệt hại vật chất là khoản lợi nhuận bất hợp pháp mà Công ty Cổ phần D thu được là 233.926.000 đồng và chi phí luật sư là 472.500.000 đồng.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về ăn phi và quyền không cảo theo quy định pháp luật.

Ngày 27/9/2024, Công ty TNHH D có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Nguyên đơn – Công ty TNHH D có người đại diện theo ủy quyền là bà Bùi Thị Lệ H trình bày:

Nguyên đơn không cung cấp tài liệu, chứng cứ mới mà vẫn giữ nguyên tất cả lời trình bày, quan điểm từ trước đến nay như ở giai đoạn sơ thẩm và trong nội dung đơn kháng cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận yêu cầu kháng cáo của Công ty TNHH D, sửa bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Bị đơn - Công ty Cổ phần D có người đại diện theo ủy quyền là ông Trần Quang K trình bày:

Bị đơn vẫn giữ nguyên quan điểm và trình bày tại cấp sơ thẩm. Bản án sơ thẩm tuyên là có căn cứ đúng pháp luật. Nguyên đơn kháng cáo nhưng không cung cấp được tỉnh tiết mới chứng minh cho yêu cầu của mình nên kháng cáo của nguyên đơn là không có căn cứ, đề nghị Hội đồng xét xử bác kháng cáo và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chi Minh tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án:

- Về tố tụng: Thẩm phán chủ tọa, Hội đồng xét xử, thư ký, những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng theo quy định. Đơn kháng cáo của Công ty TNHH D nằm trong hạn nên được xem xét theo thủ tục phúc thẩm.

- Về nội dung: Tòa án cấp sơ thẩm thu thập đánh là đầy đủ chứng cử, bản án tuyên có căn cứ. Tại cấp phúc thẩm, nguyên đơn kháng cáo nhưng không đưa ra được tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử bác kháng cáo của Công ty TNHH D. giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra công khai tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử xét thấy:

[1] Về tố tụng:

Luật sở hữu trí tuệ có hiệu lực tại thời điểm nguyên đơn nộp đơn khởi kiện là Luật sở hữu trí tuệ năm 2005, sửa đổi bổ sung năm 2009 (gọi tắt là Luật SHTT).

Tại cấp sơ thẩm nguyên đơn rút một phần yêu cầu khởi kiện đổi với bị đơn nên Tòa án cấp sơ thẩm đình chỉ giải quyết một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là đúng quy định tại khoản 2 Điều 244 Bộ luật Tố tụng dân sự, Đơn kháng cáo của Công ty TNHH D làm trong hạn luật định, là hợp lệ nên được xem xét theo thủ tục phúc thẩm.

[2] Về nội dung: Công ty TNHH D (Công ty D) kháng cáo đề nghị xem xét chấp nhận yêu cầu bồi thường thiệt hại là khoản lợi nhuận bất hợp pháp của Công ty Cổ phần D (Công ty D) và chi phí luật sư.

Xem xét việc xác định hành vi xâm phạm quyền sở hữu nhãn hiệu hàng hóa, thấy rằng: Nhân hiệu “SEFTRA", loại nhân hiệu: Thông thường, nhóm 5: Dược phẩm được Công ty S1 (gọi tắt là Công ty S2) đăng ký bảo hộ tại Việt Nam theo Giấy chứng nhận đăng ký nhân hiệu số 81173 theo Quyết định số 4446/QĐ-SHTT ngày 16/4/2007 của Cục S - Bộ K1 và Công nghệ. Theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 6 Luật SHTT năm 2005 thì quyền sở hữu của Công ty S2 đối với nhân hiệu "SEFTRA" được xác lập kể từ ngày 16/4/2007. Quyền sở hữu nhân hiệu “SEFTRA" được Công ty S2 chuyển giao cho Công ty D theo hình thức hợp đồng chuyển nhượng được Cục S trí tuệ cấp Giấy chứng nhận đăng ký Hợp đồng chuyển nhượng quyền sở hữu công nghiệp số 6493 ngày 22/8/2013. Theo quy định tại khoản 1 Điều 148 Luật SHTT thì quyền sửhữu của Công ty D đối với nhãn hiệu “SEFTRA" được xác lập kể từ ngày 22/8/2013, Công ty D có các quyền của chủ sở hữu nhân hiệu “SEFTRA" theo quy định của Luật SHTT kể từ ngày 22/8/2013.

Công ty D đã khởi kiện Công ty cổ phần C (Công ty C) vì sử dụng dầu hiệu... "SEXTRA" trên sản phẩm trùng với nhân hiệu “SEFTRA” của Công ty D đã được bảo hộ. Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã ban hành Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 32/2015/KDTM-ST ngày 17/7/2015 và Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội đã ban hành Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 37/2017/KDTM-PT ngày 27/02/2017, theo đó bàn án phúc thẩm đã nhận định và xác định “Công ty C có sử dụng các nhân hiệu “SEXTRA", "SEXtra và hình" trong thời gian Giấy chứng nhận đăng ký số 81173 của Công ty D còn hiệu lực được coi là yếu tố xâm phạm quyền sở hữu nhân hiệu SEFTRA (...). Công ty C đã xâm phạm quyền SHTT đối với nhãn hiệu SEFTRA của Công ty S2 và Công ty D”. Trong vụ án này, Công ty D đã đưa ra yêu cầu Công ty C bồi thường thiệt hại vật chất các khoản gồm: Lợi nhuận bất hợp pháp 1.169.000.000 đồng; tổn thất về cơ hội kinh doanh 431.595.000 đồng; chi phíhợp lý để thuê luật sư 630.000.000 đồng. Trong Bản án phúc thẩm số 37/2017/KDTM-PT đã xem xét yêu cầu bồi thường vật chất này của Công ty D và quyết định “Buộc Công ty C phải bồi thường cho Công ty D tổn thất cơ hội kinh doanh 22.191.309 đồng và 630.000.000 đồng chỉ phí thuê luật sư" Xét hành vi của Công ty D xâm phạm quyền sở hữu nhãn hiệu SEFTRA của Công ty D: Công ty D cung cấp chứng cứ chứng minh việc vi phạm của Công ty D là Quyết định số 23/QĐ-XPVPHC ngày 20/01/2014 của UBND quận T xử phạt vi phạm hành chính đối với Công ty D do đã thực hiện hành vi vi phạm hành chính: Bản hàng hóa xâm phạm quyền đối với nhân hiệu (...). Biện pháp khắc phục hậu quá: Buộc Công ty D tiêu hủy 01 gói (1 viên) thuốc tháo dược thiên nhiên dành cho đàn ông hiệu SEXTRA do M sản xuất. Quyết định này hiện đã có hiệu lực pháp luật và được Công ty D chấp hành. Như vậy, tại thời điểm lập biên bản vi phạm ngày 03/01/2014, thì Công ty D có hành vi bán hàng hóa có dấu hiệu trùng với nhân hiệu được bảo hộ của Công ty D, đây là xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu được quy định tại khoản 1 Điều 129 Luật SHTT. Công ty D. cho rằng chỉ là bên mua lại sản phẩm có nhân hiệu Sextra do Công ty C phân phối nên không phải là chủ thể có hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu Seftra là không phù hợp với quy định tại điểm b khoản 5 Điều 124 Luật SHTT, vì tại điều khoản này của luật đã quy định cụ thể hành vi bán, chảo bán, quảng cáo để bán, trưng bày, tàng trữ để bản,... đều là hành vi sử dụng nhân hiệu, do vậy lời trình bày của Công ty D cho rằng không phải là chủ thể có hành vì xâm phạm quyền đối với nhân hiệu Seftra, không được chấp nhận.

Xét yêu cầu bồi thường thiệt hại: Khoản 4 Điều 202 Luật SHTT quy định chủ sở hữu trí tuệ bị xâm phạm có quyền yêu cầu “xử lý xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ bằng biện pháp dân sự" trong đó có quyền yêu cầu “Buộc bồi thường thiệt hại" do vậy Công ty D yêu cầu Công ty D bồi thường thiệt hại là phù hợp quy định nêu trên. Cụ thể, Công ty D xác định những thiệt hại yêu cầu Công ty D bồi thường là thiệt hại do giảm sút về thu nhập, lợi nhuận, tổn thất về cơ hội kinh doanh được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 204 Luật SHTT và áp dụng các căn cứ xác định mức bồi thường là theo điểm a khoản 1, khoản 3 Điều 205 Luật SHTT để yêu cầu Công ty D bồi thường thiệt hại vật chất số tiền là 233.926.000 đồng và chi phí luật sư mà nguyên đơn phải số tiền là 472.500.000 đồng.

Xét yêu cầu bồi thường thiệt hại vật chất với số tiền là 233.926.000 đồng: Nhận thấy, tại vụ án khởi kiện Công ty C, Công ty D cũng đưa yêu cầu CVS bồi thường thiệt hại do giảm sút về thu nhập, lợi nhuận, tổn thất về cơ hội kinh doanh và đã được xem xét giải quyết. Trong vụ án này Công ty D tiếp tục đưa ra yêu cầu bồi thường thiệt hại do giảm sút về thu nhập, lợi nhuận, tổn thất về cơ hội kinh doanh là có sự trùng lặp. Theo quy định tại Điều 2 Thông tư liên tịch số 02/2008/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BVHTT&DL-BKH&CN-BTP ngày 03/4/2008, Công ty D phải chứng minh được lợi nhuận của chính Công ty D thu được từ việc kinh doanh trước và sau khi bị Công ty D xâm phạm quyền sở hữu nhân hiệu Seftra để từ đó tỉnh được mức lợi nhuận bị giảm sút, cũng như chứng minh về cơ hội kinh doanh trước và sau khi bị Công ty D xâm phạm quyền sở hữu nhân hiệu Seftra và những khoản thiệt hại này phải không trùng với thiệt hại đã được bản án đã có hiệu lực tuyên buộc Công ty C bồi thường. Tuy nhiên, Công ty D không cung cấp được chứng cứ để chứng minh những nội dung như trên. Theo tài liệu chứng cứ trong hồ sơ, trên cùng 1 sản phẩm Sextra do Công ty C nhập khẩu và phân phối, Công ty D đã 2 lần yêu cầu bồi thường cho cùng một thiệt hại vật chất là không phù hợp với nguyên tắc bồi thường thiệt hại được quy định tại Điều 585 Bộ luật Dân sự. Ngoài ra, Công ty D xác định mức bồi thường với số tiền 233.926.000 đồng là khoản lợi nhuận bất hợp pháp mà Công ty D thu được từ việc đã bản số lượng 3.773 viên thảo dược gắn nhãn hiệu “Sextra" đã mua lại từ Công ty C (căn cứ vào 13 hóa đơn bản photo mà Công ty C đã xuất ra cho Công ty D) với giá 68.000 đồng/1 viên, Công ty D bán ra với giá 130.000 đồng/1 viên nên lợi nhuận thu về là 62.000 đồng x 3.773 viên = 233.926.000 đồng nhưng lời trình bày này không được Công ty D thừa nhận. Công ty D không xuất trình được bản chính của 13 hóa đơn để đối chiếu hoặc chứng minh được 13 hóa đơn này là tài liệu “có thật" theo quy định của Điều 93 Bộ luật Tổ tụng dân sự, cũng như không xuất trình được chứng cứ để chứng minh về giả mua - giá bản, doanh thu của phía bị đơn đối với toàn bộ số lượng thảo dược nêu trên. Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận phần yêu cầu này của Công ty D là phù hợp với các tài liệu, chứng cứ được thu thập trong quá trình giải quyết vụ án.

Xét yêu cầu hoàn trả chi phí luật sư: Công ty D trình bày để giải quyết vụ việc, ngăn chặn và xử lý hành vi xâm phạm quyền đối với nhân hiệu “SEFTRA" của Công ty D, Công ty D đã ký Hợp đồng dịch vụ số 03-01/2014/HĐDV ngày 03/01/2014 với Công ty L có địa chỉ tại CĐ, quận B, H, Hà Nội với chi phí phải trà là 472.500.000 đồng (gồm VAT). Cho đến nay Công ty D đã thanh toán số tiền 300.000.000 đồng theo phiếu thu ngày 06/01/2014 của Công ty Luật, số tiền còn lại Công ty D sẽ phải trả sau khi có bản án sơ thẩm.

Để có căn cứ xác định “Chi phí hợp lý để thuê luật sư là chi phí thực tế cần thiết, phù hợp với tính chất, mức độ phức tạp của vụ việc; kỹ năng, trình độ của luật sư và lượng thời gian cần thiết để nghiên cứu vụ việc” như quy định tại khoản 2.4 Điều 2 Mục 1 Phần B Thông tư liên tịch 02 nêu trên, Tòa án cấp sơ thầm đã yêu cầu Công ty D xuất trình được chứng cứ chứng minh Hợp đồng dịch vụ số 0301/2014/HĐDV giữa các bên đã được thực hiện thông qua việc đã khai báo nộp thuế theo quy định nhưng Công ty D xác nhận hợp đồng này chưa được Công ty D và Công ty L. thực hiện khai thuế và nộp thuế. Đồng thời, đổi chiếu các công việc trong hợp đồng và tải liệu chứng cứ mà Công ty D đã nộp trong hồ sơ cho thấy những công việc đã liệt kê trong hợp đồng có những công việc mà nguyên đơn đã thực hiện để cung cấp, chứng minh trong vụ tranh chấp với Công ty C tại Toà án nhân dân Thành phố Hà Nội, cụ thể như các mục: 1.2, 1.3; có những công việc không có tài liệu chứng minh đã có thực hiện trong vụ án này, cụ thể như các mục: 1.1, 1,4, 1.5, 1.7, 1.8. Như vậy, đối với khoản chỉ phí thuê luật sư với số tiền 472.500.000 đồng thì Công ty D không chứng minh được đây là “chi phí thực tế cần thiết, phù hợp với tính chất, mức độ phức tạp của vụ việc; kỹ năng, trình độ của luật sư và lượng thời gian cần thiết để nghiên cứu vụ việc" như quy định nêu trên. Công ty D không nêu được chi phí cụ thể trên từng công việc là bao nhiêu. Đồng thời, Công ty D cũng không cung cấp được tài liệu, chứng cứ về thiệt hại thực tế do hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu. Trên cơ sở đó, Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu của Công ty D đối với chi phí luật sư là phù hợp.

Như đã phân tích trên, Công ty D yêu cầu Công ty D bồi thường thiệt hại vật chất với tổng số tiền 706,426.000 đồng nhưng không chứng minh được đây là thiệt hại thực tế đã xảy ra như quy định tại khoản 6 Điều 203 Luật SHTT nên yêu cầu này không được chấp nhận.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[3] Về án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên Công ty D phải chịu án phí phúc thẩm.

Vì các lễ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Không chấp nhận kháng cáo của Công ty TNHH D. Giữ nguyên Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số: 263/2024/KDTM-ST ngày: 20/9/2024 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh như sau:

1. Đình chỉ các yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH D, như sau:

- Buộc Công ty Cổ phần D phải chấm dứt ngay lập tức hành vi quảng cáo, tàng trữ, buôn bán sản phẩm thực phẩm chức năng gắn dấu hiệu “SEXTRA của Công ty TNHH D;

- Buộc Công ty Cổ phần D phải xin lỗi, cải chính công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng.

2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH D đòi Công ty Cổ phần D bồi thường thiệt hại số tiền 706.426.000 (bảy trầm lẻ sáu triệu, bồn trăm hai mươi sáu nghìn) đồng, gồm các khoản: Thiệt hại vật chất là khoản lợi nhuận bất hợp pháp mà Công ty Cổ phần D thu được là 233.926.000 (hai trăm ba mươi ba triệu, chỉn trăm hai mươi sáu nghìn) đồng và chi phí luật sư là 472.500.000 (bốn trăm bảy mươi hai triệu, năm trăm nghìn) đồng.

3. Về án phí:

- Án phí sơ thẩm về kinh doanh thương mại: Công ty TNHH D phải chịu ản phí số tiền 32.257.000 (ba mươi hai triệu, hai trăm năm mươi bảy nghìn) đồng, sau khi cấn trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp là 29.250.000 (hai mươi chín triệu, hai trăm năm mươi nghìn) đồng theo biên lai thu số AG/2010/07224 ngày 28/7/2014 của Cục thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh, Công ty TNHH D còn phải nộp bổ sung số tiền 3.007.000 (ba triệu không trâm lẻ bảy nghìn) đồng.

- Án phí phúc thẩm về kinh doanh thương mại: Công ty TNHH D phải chịu án phí số tiền 2.000.000 (hai triệu) đồng, được cấn trừ vào tiền tạm ứng án phíđã nộp là 2.000.000 (hai triệu) đồng theo biên lai thu số 0041544 ngày 17/10/2024 của Cục thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh

4. Trường hợp bàn án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

135
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ số 56/2025/KDTM-PT

Số hiệu:56/2025/KDTM-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Kinh tế
Ngày ban hành: 21/05/2025
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;