TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 785/2023/DS-PT NGÀY 21/11/2023 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỞ HỮU NHÀ
Ngày 21 tháng 11 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố H, xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 87/2016/TLPT-DS ngày 19 tháng 4 năm 2016 về việc “Tranh chấp quyền sở hữu nhà”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 203/2016/DS-ST ngày 07 tháng 3 năm 2016 của Tòa án nhân dân Thành phố H bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 5811/2023/QĐ-PT ngày 31 tháng 10 năm 2023, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Cao Viết H, sinh năm 1936. Nơi cư trú: thôn P, xã P, huyện C, Thành phố Hà Nội (chết ngày 13/3/2019) Người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng cho ông Cao Viết H:
1.1. Bà Nguyễn Thị Kim L, sinh năm 1937; nơi cư trú: thôn P, xã P, huyện C, Thành phố Hà Nội; (vắng mặt)
1.2. Ông Cao Việt D, sinh năm 1969; nơi cư trú: thôn P, xã P, huyện C, Thành phố Hà Nội; (vắng mặt)
1.3. Bà Cao Thị Xuân L1, sinh năm 1971; nơi cư trú: B B, phường A, quận G, Thành phố H; (vắng mặt)
1.4. Ông Cao Hoài Đ, sinh năm 1974; nơi cư trú: thôn P, xã P, huyện C, Thành phố Hà Nội; (vắng mặt).
1.5. Ông Cao Hồng H1, sinh năm 1976; nơi cư trú: 2 N, phường B, quận B, Thành phố H; (có mặt)
Người đại diện theo ủy quyền cho nguyên đơn: Ông Cao Hồng H1; nơi cư trú: 362/6/11 đường T, phường T, Quận A, Thành phố H; (nơi cư trú khác: 212/1/42 đường P, Phường I, quận G, Thành phố H)
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Luật sư Phan Trung H2; địa chỉ: A Đ, Phường I, quận P, Thành phố H; (có mặt)
2. Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Kim Q, sinh năm 1949; nơi cư trú: A T, Phường H, quận P, Thành phố H; (vắng mặt)
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: Luật sư Phạm Thanh B, thuộc Đoàn Luật sư Thành phố H; (có văn bản xin xét xử vắng mặt).
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1. Bà Nguyễn Thị Kim L, sinh năm 1937; nơi cư trú: thôn P, xã P, huyện C, Thành phố Hà Nội; (vắng mặt)
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Cao Hồng H1; nơi cư trú: 362/6/11 đường T, phường T, Quận A, Thành phố H.
3.2. Bà Dương Mộng S, sinh năm 1936; nơi cư trú: 04B, C3 K Q, Phường A, quận T, Thành phố H; (vắng mặt).
3.3. Doanh nghiệp tư nhân T; Địa chỉ: A T, Phường H, quận P, Thành phố H.
Người đại diện theo pháp luật: Bà Huỳnh Diễm P; (vắng mặt).
3.4. Ủy ban nhân dân quận P, Thành phố H; (vắng mặt).
4. Người kháng cáo: Đại diện hợp pháp nguyên đơn; bị đơn; bà Dương Mộng S - người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Nguyên đơn ông Cao Viết H trình bày:
Năm 1989, ông Cao Viết H từ miền B vào Thành phố H làm việc, thông qua những người bạn giới thiệu nên ông H và bà Nguyễn Thị Kim Q quen nhau.
Do có nhu cầu về nhà ở nên khi đọc báo, ông H biết căn nhà số A T, Phường H, quận P, Thành phố H thuộc quyền sở hữu của ông Nguyễn Mạnh H3 và bà Dương Mộng S cần bán nên ông H đến hỏi mua. Sau khi thoả thuận, hai bên đồng ý giá mua bán là 55 lượng vàng SJC và lập giấy giao kèo tạm thời. Ngay trong ngày, ông H đặt cọc 500.000 đồng và 03 chỉ vàng. Hôm sau, ông đưa tiếp 11.500.000 đồng, bà S ký nhận tiền bổ sung vào giấy giao kèo mua bán nhà. Một tuần sau, ông H giao tiếp cho bà S số tiền 13.000.000 đồng, tổng cộng đã giao cho bà S 25.000.000 đồng. Sau đó, ông H ra Hà Nội để lo tiền mua vàng trả cho vợ chồng bà S.
Ngày 19/11/1989, ông H vào Thành phố H và cùng vợ chồng bà S tiến hành việc giao 42 lượng vàng còn lại, bàn giao nhà cho ông H vào ngày 20/11/1989.
Do không có hộ khẩu tại Thành phố H nên ông H nhờ bà Q đứng tên hợp đồng mua nhà với vợ chồng bà S. Sau khi nhận nhà, ông H có sửa chữa, mua sắm đồ đạc trong nhà và sử dụng nhà để ở. Do phải thường xuyên ra Bắc nên ông H nhờ bà Q trông nhà giúp.
Đến tháng 9/1990 ông H vào S thì được biết bà Q đã lấy toàn bộ giấy tờ của căn nhà số A T, quận P làm thủ tục sang tên sở hữu của bà Q. Ngay thời điểm đó, ông H đã gửi đơn lên các cơ quan có thẩm quyền giải quyết nhưng không có kết quả.
Ngày 13/7/2004, ông H gặp bà S trình bày sự việc và nhờ bà S làm giấy tái xác nhận việc mua bán nhà giữa ông H với vợ chồng bà S.
Nay, ông H khởi kiện yêu cầu:
- Công nhận căn nhà số A T, Phường H, quận P, Thành phố H là tài sản thuộc sở hữu của ông H đã mua của vợ chồng bà S.
- Yêu cầu bà Nguyễn Thị Kim Q phải giao trả căn nhà trên và toàn bộ giấy tờ liên quan.
- Yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà số A T đã cấp cho bà Nguyễn Thị Kim Q.
* Bị đơn bà Nguyễn Thị Kim Q trình bày:
Tháng 10/1989 qua mục mua bán nhà trên báo S1, bà tìm đến ngôi nhà A T, Phường H, quận P của vợ chồng bà Dương Mộng S và ông Nguyễn Mạnh H3 để xem nhà và giấy tờ nhà. Căn nhà này chỉ do một mình bà S đứng tên sở hữu. Bà Q đồng ý mua nhà với giá 55 lượng vàng 9999; Bà Q đã đặt cọc tiền mặt tương đương 05 lượng vàng trong ngày; bà S đã ký nhận tiền cọc.
Cuối tháng 10/1989, qua giới thiệu của thủ trưởng, bà Q đã cho ông Cao Viết H vay 70.000.000 đồng, thoả thuận trả bằng vàng. Ông H hứa chỉ vay khoảng 10 đến 15 ngày và sẽ tính lãi vay 0,4%/ngày. Khi giao tiền cho ông H vay, bà Q nói cho ông H biết việc mua nhà và yêu cầu ông H trả tiền đúng hạn để bà Q thanh toán tiền mua nhà. Từ đó, ông H ngỏ ý muốn nhập hộ khẩu vào Thành phố H nên hỏi nhờ bà Q giúp. Ông H nhờ bà Q đứng ra nhận ông H là “chồng hờ” và kê khai tên ông H vào phần người mua trong văn tự mua bán nhà nên bà Q nói với vợ chồng bà S, ông H3 và được bà S, ông H3 đồng ý giúp đờ. Ông H3 còn nói ông H3 là Bí thư Chi bộ Phường 8 nên việc giúp ông H sẽ dễ dàng. Từ đó, vợ chồng bà S biết ông H.
Ngày 03/11/1989, bà Q cùng ông H đến gặp vợ chồng bà S, ông H3; hai bên lập văn tự mua bán nhà. Ông H3 viết phần người bán; phần người mua bà Q nhờ ông H viết do chừ ông H đẹp. Trong văn tự mua bán nhà có ghi tên ông H với tư cách “người chồng” nhằm giúp ông H nhập hộ khẩu vào Thành phố H. Tuy nhiên, để đề phòng những chuyện rắc rối có thể xảy ra, ngay lúc đó bà Q yêu cầu ông H viết bản cam kết với các nội dung: Tôi (H) cam kết không phải là chồng bà Q; Tôi (H) chỉ nhờ bà Q nhập khẩu vào Thành phố H; Sở hữu căn nhà 14 T duy nhất chỉ có bà Q; Sau khi nhập hộ khẩu vào Thành phố H rồi thì phải tìm cách chuyển đi ngay.
Mặt khác, theo quy định của Thành phố vào thời điểm đó, Ủy ban nhân dân phường nơi người mua nhà cư trú phải xác nhận trước. Trên cơ sở đó, Ủy ban phường nơi người bán nhà mới xác nhận việc mua bán nên ông H không thể ký vào văn tự mua bán nhà.
Ngày 06/11/1989, Ủy ban nhân dân Phường H6, quận P xác nhận trên văn tự mua bán nhà: “Chữ ký trên đây là của ông, bà Dương Mộng S, Nguyễn Mạnh H3 và Nguyễn Thị Kim Q ký trước mặt Ủy ban nhân dân phường, về việc mua bán căn nhà”, chứng thực số 281/F8 ngày 06/11/1989 và vào sổ bộ theo số thứ tự 337. Văn tự mua bán này được gửi kèm theo hồ sơ nhà lên Ủy ban nhân dân quận P để làm thủ tục sang tên.
Tuy nhiên, khi Phòng xây dựng quận p xem xét hồ sơ mua bán nhà, thấy tên ông H trong phần người mua trong văn tự mua bán nhà không hợp lệ (do bà Q, ông H không đăng ký kết hôn, trong văn tự mua bán nhà không có chữ ký của ông H) nên Phòng Xây dựng quận đã gạch tên ông H trong văn tự mua bán nhà.
Ngày 08/11/1989, Phòng Xây dựng quận P xuống đo vẽ hiện trạng căn nhà.
Ngày 11/11/1989, Ủy ban nhân dân quận P ký giấy phép mua bán chuyển dịch nhà cửa cho phép vợ chồng bà Dương Mộng S, ông Nguyễn Mạnh H3 bán căn nhà 14 T cho bà Nguyễn Thị Kim Q.
Ngày 20/11/1989, ông H hẹn bà Q đến cửa hàng vàng số 420 X để thanh toán số nợ 70.000.000 đồng. Bà Q cũng hẹn vợ chồng ông H3, bà S đến địa điểm trên để trực tiếp giám sát số lượng và chất lượng vàng để bà Q thanh toán tiền mua nhà. Ông H giữ 42 lượng vàng đã được niêm phong, về đến nhà 14 Trương Quốc D1 thì giao lại cho bà Q để bà Q thanh toán cho vợ chồng bà S, ông H3. Bà Q phải trả thêm cho vợ chồng bà S 08 lượng vàng bằng tiền mặt; cộng với 05 lượng vàng đã đặt cọc. Ngoài ra, bà Q còn thanh toán đủ số tiền chênh lệch giữa 70.000.000 đồng với 42 lượng vàng do ông H đã trả và trả lại cho ông H giấy biên nhận vay nợ. Như vậy, bà Q đã thanh toán đủ 55 lượng vàng. Sau khi giao đủ tiền vàng, bà Q và bà S lập “Biên bản bàn giao tiền, vàng và nhà số A T cùng toàn bộ giấy tờ nhà” (bản chính). Biên bản bàn giao và tám loại giấy tờ nhà (bản chính) hiện nay bà Q giữ.
Ngày 21/11/1989, bà Q làm thủ tục đăng ký sang tên trước bạ căn nhà.
Ngày 04/12/1989, bà Q đã đóng thuế trước bạ theo quy định.
Sau khi nhận nhà, từ ngày 20/11/1989, bà Q là người sử dụng nhà từ đó cho tới nay. Tháng 6/1993, bà Q xây dựng, sửa chữa lại căn nhà từ 01 trệt, 01 lầu (theo bản vẽ ngày 08/11/1989) thành căn nhà 01 trệt 03 lầu (theo bản vẽ ngày 01/7/2007). Bà Q khẳng định là mua căn nhà số A T của bà Dương Mộng S, ông Nguyễn Mạnh H3 đúng quy định pháp luật, theo trình tự như đã nêu trên, sử dụng và đóng thuế nhà đất từ khi mua đến nay. Ông H không ở tại căn nhà này và không sửa chữa, xây dựng nhà.
Quá trình sử dụng bà Q có cho T thuê nhà để kinh doanh khách sạn. Giữa bà Q với T không có tranh chấp về quan hệ thuê nhà. Nay bà Q không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông Cao Viết H.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Bà Dương Mộng S trình bày: Bà S khẳng định cùng chồng là ông Nguyễn Mạnh H3 bán nhà số A T cho ông Cao Viết H, nhận tiền vàng do ông H giao, giao nhà và toàn bộ giấy tờ cho ông H.
Tại Bản khai ngày 19/5/2005, bà S thừa nhận tại thời điểm bàn giao vàng và nhà bà không biết giấy tờ nhà ở đâu, bà không giữ. Bà S cho rằng do ông H không có hộ khẩu tại Thành phố H nên có nhờ bà Q đứng tên hợp đồng mua nhà. Khi đi giao dịch mua nhà với ông H có bà Q đi cùng, ông H giới thiệu bà Q là người giúp việc, đại diện ở phía Nam.
Tại Biên bản làm việc ngày 19/5/2005, tại Cơ quan điều tra quận P bà S thừa nhận chữ ký bên bán trong văn tự mua bán nhà ngày 06/11/1989 là của bà S, ông H3; chữ viết phần người bán do ông H3 viết; phần người mua do ông H viết, bà Q ký tên bên mua.
Tại Bản khai ngày 18/10/2004, tại Tòa án nhân dân quận Phú Nhuận, bà S thừa nhận văn tự mua bán nhà do vợ chồng bà S bán cho bà Q, có tên ông H.
Nay, bà S yêu cầu công nhận việc mua bán nhà số A T cho ông Cao Viết H.
- Bà Nguyễn Thị Kim L do Ông Cao Hoàng H4 đại diện trình bày: Bà L là vợ ông H; việc mua bán nhà do ông H giao dịch, bà L không biết; bà L đồng ý với yêu cầu của ông H.
- Ủy ban nhân dân quận P có ý kiến: Căn nhà số A T, Phường H, quận P thuộc sở hữu của bà Dương Mộng S, ông Nguyễn Mạnh H3. Bà S, ông H3 bán căn nhà nêu trên cho bà Nguyễn Thị Kim Q theo văn tự mua bán nhà do Ủy ban nhân dân Phường H6, quận P chứng nhận số 281/F8 ngày 06/11/1989. Căn cứ quy định của Ủy ban nhân dân Thành phố H, Ủy ban nhân dân quận p đã cấp giấy phép mua bán, chuyển dịch nhà cửa số 1969/GP-UB ngày 11/11/1989 cho bà Nguyễn Thị Kim Q theo đúng quy định pháp luật. Bà Q kê khai đăng ký sang tên trước bạ nhà và đã đóng thuế trước bạ theo biên lai thu tiền số 2938 ngày 04/12/1989. Ông Cao Viết H yêu cầu hủy Giấy phép mua bán, chuyển nhượng nhà cửa số 1969/GP-UB ngày 11/11/1989 do Ủy ban nhân dân quận P cấp cho bà Nguyễn Thị Kim Q là không có căn cứ.
- Bà Huỳnh Diễm P - chủ T có ý kiến như sau: T thuê nhà A T, Phường H, quận P của bà Nguyễn Thị Kim Q để kinh doanh phòng cho thuê; thời hạn đến năm 2016. Bà P không có tranh chấp hay yêu cầu cần giải quyết trong vụ án.
* Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 203/2016/DS-ST ngày 07 tháng 3 năm 2016 của Tòa án nhân dân Thành phố H đã quyết định:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Cao Viết H.
Công nhận căn nhà số A T, Phường H, quận P thuộc quyền sở hữu của bà Nguyễn Thị Kim Q theo Giấy chứng nhận mua bán chuyển dịch nhà số 1969/GP-ƯB ngày 11/11/1989 của Ủy ban nhân dân quận P.
Buộc bà Nguyễn Thị Kim Q phải thanh toán cho ông Cao Viết H giá trị 42 cây vàng tại thời điểm xét xử là 1.416.660.000 đồng ngày sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.
2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Cao Viết H đối với:
- Yêu cầu bà Nguyễn Thị Kim Q phải giao trả căn nhà số A T, Phường H, quận P, Thành phố H và toàn bộ giấy tờ liên quan đến căn nhà.
- Yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà số A T, Phường H, quận P do Ủy ban nhân dân quận P cấp cho bà Nguyễn Thị Kim Q.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về lãi chậm thi hành án, án phí và quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.
Ngày 17/3/2016, Đại diện hợp pháp của nguyên đơn kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; công nhận quyền sở hữu nhà 14 T cho ông Cao Viết H; hủy giấy phép số 1969 của Ủy ban nhân dân quận P; định giá lại phần giá trị xây dựng thêm để ông H hoàn trả lại giá trị cho bà Q.
Ngày 17/3/2016, bà Dương Mộng S là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn;
Ngày 18/3/2016, bị đơn bà Nguyễn Thị Kim Q kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa một phần bản án theo hướng không tuyên buộc bà Q thanh toán lại cho ông H 42 cây vàng.
* Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Đại diện hợp pháp của nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.
- Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn cho rằng Tòa sơ thẩm có thiếu sót nghiêm trọng trong việc thu thập và mâu thuẫn trong đánh giá chứng cứ. Đồng thời đề nghị chấp nhận kháng cáo, công nhận căn nhà số A T cho ông Cao Viết H; Hủy giấy mua bán nhà giữa bà S và bà Q, buộc bà Q giao trả căn nhà số A cho nguyên đơn.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố H phát biểu quan điểm: Về tố tụng: đề nghị Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt đối với các đương sự đã được Tòa án triệu tập hợp lệ; Về nội dung: Đề hủy án sơ thẩm, do Tòa sơ thẩm giải quyết vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và không định giá lại phần sửa chữa, xây thêm của căn nhà số A.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về tố tụng: Những người kháng cáo, tham gia tố tụng đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ quy định tại Điều 228 của của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng phúc thẩm tiến hành xét xử vắng mặt theo quy định chung.
[2]. Xét yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan thấy rằng:
[2.1]. Về quá trình chuyển nhượng và quản lý sử dụng Căn nhà đang tranh chấp số A T, Phường H, quận P:
Đại diện hợp pháp của nguyên đơn ông Cao Viết H yêu cầu công nhận Căn nhà số A T, Phường H, quận P (gọi tắt là Căn nhà số A), thuộc sở hữu của ông H, do ông mua của vợ chồng bà Dương Mộng S và ông Nguyễn Mạnh H3 theo Giấy thoả thuận ngày 18/9/1989, giá 55 lượng vàng 24K;
Còn phía bị đơn bà Nguyễn Thị Kim Q không thừa nhận ông H là người mua nhà của vợ chồng bà S và nhờ bà Q đứng tên giùm trên văn tự mua bán. Việc có tên ông H trong Văn tự mua bán ngày 06/11/1989 là do ông H nhờ bà Q tạo điều kiện để ông H nhập hộ khẩu vào Thành phố H, nhưng không thực hiện được do hai người không có đăng ký kết hôn nên cán bộ Phòng Xây dựng gạch tên ông H. Bà Q khẳng định bà là người mua Căn nhà số A của vợ chồng bà S thông qua Văn tự mua bán do Ủy ban nhân dân Phường H6 chứng nhận số 281/F8 ngày 06/11/1989.
Quá trình giải quyết vụ án và đơn kháng cáo của bà S đều xác định bán nhà cho ông H, nhận tiền vàng và giao nhà cho ông H; không có việc bán nhà cho bà Q, phía ông H nhờ bà Q trông coi nhà.
Hồ sơ thể hiện có 03 văn tự bán nhà với 02 số chứng thực khác nhau là số 28/f8 và số 337. Giấy văn tự bán nhà được ký vào ngày 06/11/1989, bản vẽ hoàn thành ngày 08/11/1989 nhưng đến ngày 11/11/1989 mới có giấy phép cho mua bán chuyển dịch nhà; Theo như bị đơn khai, trong ngày 20/11/1989 bà mới giao hết 55 lượng vàng cho bà S; Tại bản án phúc thẩm số 117/2013/DS-PT ngày 10/4/2013 hủy bản án dân sự sơ thẩm và đề nghị thu thập hồ sơ liên quan đến việc đăng ký quyền sở hữu Căn nhà số A để làm rõ những mâu thuẫn trên nhưng Tòa sơ thẩm chưa thu thập và đánh giá.
Tuy nhiên, trong hồ sơ vụ án thể hiện có sổ tổng hợp (bản gốc) của Ủy ban nhân dân Phường H6, Quận P, Thành phố H, liên quan đến việc mua bán căn nhà số A; nhưng thực tế chỉ có bản phô tô (BL số 07). Tại giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm, cũng đã có Văn bản số 380/CV-TANDCC ngày 23/5/2017 gửi Chánh án Tòa án nhân dân quận Phú Nhuận (Do thụ lý, giải quyết ban đầu là Tòa án nhân dân quận Phú Nhuận) về việc rà soát, cung cấp chứng cứ (bản gốc) nêu trên nhưng đến nay vẫn không có văn bản trả lời.
Như vậy, sự việc bán căn nhà số A là có thật. Nhưng bán căn nhà cho ông H hay bà Q hồ sơ thể hiện còn nhiều mâu thuẫn chưa được thu thập làm rõ để đánh giá một cách toàn diện vụ án.
[2.2]. Liên quan đến phạm vi yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, thấy rằng:
Xuyên suốt quá trình tố tụng, nguyên đơn, đại diện hợp pháp của nguyên đơn chỉ yêu cầu công nhận căn nhà số A T, Phường H, quận P, Thành phố H là tài sản thuộc sở hữu của ông H đã mua của vợ chồng bà S.
Tuy nhiên, tại bản án sơ thẩm số 203/2016/DS-ST ngày 07 tháng 3 năm 2016 của Tòa án nhân dân Thành phố H tuyên xử bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn nhưng buộc bị đơn trả cho nguyên đơn giá trị 42 cây vàng (tương đương 1.416.660.000 đồng tại thời điểm xét xử) là vượt quá yêu cầu khởi kiện của đương sự, vi phạm Điều 5 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và bị đơn cũng kháng cáo vấn đề này.
[2.3]. Về vấn đề định giá tài sản:
Theo như bị đơn trình bày tháng 6/1993, bà Q xây dựng, sửa chữa lại căn nhà từ 01 trệt 01 lầu thành căn nhà 01 trệt 03 lầu, theo bản vẽ do Ủy ban nhân dân quận P kiểm tra ngày 04/02/2008.
Hồ sơ thể hiện có việc thẩm định giá căn nhà vào 2010 (cách nay hơn 13 năm), có sự chênh lệch giá trị căn nhà đang tranh chấp rất lớn; Việc xem xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, trong đó có xem xét phần giá trị tôn tạo tăng thêm, liên quan đến công sức gìn giữ, bảo quản (nếu có), thì việc định giá lại căn nhà tại thời điểm xét xử là cần thiết nhưng Tòa sơ thẩm chưa làm theo nhận định Bản án phúc thẩm trước đây (Bản án số 117).
[3]. Thấy rằng, Tòa sơ thẩm có thiếu sót về tố tụng, chưa thu thập đầy đủ các chứng cứ như đã phân tích trên mà tại phiên tòa phúc thẩm không thể thực hiện bổ sung được. Quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại phiên tòa đề nghị hủy án sơ thẩm, giao hồ sơ về giải quyết lại là phù hợp.
Quá trình giải quyết lại vụ án, cũng cần thu thập chứng cứ để xác định hiện tại căn nhà số A là ai đang quản lý, sử dụng để đưa họ vào tham gia tố tụng, nhằm giải quyết triệt để vụ án.
[4]. Do hủy án nên các đương sự không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 3 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
1. Hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 203/2016/DS-ST ngày 07 tháng 3 năm 2016 của Tòa án nhân dân Thành phố H về việc “Tranh chấp quyền sở hữu nhà” giữa nguyên đơn ông Cao Viết H với bị đơn bà Nguyễn Thị Kim Q và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khác.
2. Giao hồ sơ vụ án về cho Tòa án nhân dân Thành phố hồ Chí Minh xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm, đúng theo quy định pháp luật.
3. Giữ lại phần dự nộp án phí sơ thẩm để tiếp tục giải quyết vụ án. H5 lại tiền tạm ứng án phí phúc thẩm cho ông Cao Hồng H1, bà Nguyễn Thị Kim Q, bà Dương Mộng S mỗi đương sự 200.000 đồng theo các biên lai thu tiền số 03208, 03209 ngày 24/3/2016 và số 03217 ngày 28/3/2016 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố H.
4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 785/2023/DS-PT về tranh chấp quyền sở hữu nhà
Số hiệu: | 785/2023/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 21/11/2023 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về