Bản án về tranh chấp QSDĐ, hủy giấy chứng nhận QSDĐ số 274/2022/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 274/2022/DS-PT NGÀY 27/04/2022 VỀ TRANH CHẤP QSDĐ, HỦY GIẤY CHỨNG NHẬN QSDĐ

Trong các ngày 20 và 27 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 491/2021/TLPT-DS ngày 28 tháng 10 năm 2021 về việc: “Tranh chấp quyền sử dụng đất, hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 1427/2020/DS-ST ngày 08 tháng 9 năm 2020 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo;

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 347/2022/QĐPT-DS ngày 21 tháng 3 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn:

1. Ông Nguyễn Minh Đ, sinh năm 1976 (có mặt) 2. Bà Nguyễn Thị Bích T, sinh năm 1980 (vắng mặt) Cùng địa chỉ: 77/838 đường Lê Đức T Phường 06, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo ủy quyền của bà Nguyễn Thị Bích T: Ông Nguyễn Minh Đ, sinh năm 1976 (có mặt) Địa chỉ: Số 77/838 đường Lê Đức T, Phường 06, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh.

(Văn bản ủy quyền ngày 06/6/2017) Người đại diện theo ủy quyền của ông Nguyễn Minh Đ: Bà Nguyễn Thị Nam G, sinh năm 1980 (có mặt) Địa chỉ: Số 53/3 đường Thiên Hộ D, Phường 01, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh.

(Văn bản ủy quyền ngày 10/11/2018) - Bị đơn: Ông Lê Tấn T1, sinh năm 1966 (vắng mặt) Địa chỉ: Số 100/1 Tổ 11 Khu phố 6, phường X, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo ủy quyền của ông T1: Ông Nguyễn Đình P, sinh năm: 1984 (có mặt) Địa chỉ: 274/13 đường V, phường T2, quận P1, Thành phố Hồ Chí Minh Địa chỉ liên lạc: 66/88D đường L, Phường 13, Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh (Văn bản ủy quyền ngày 10/12/2020) - Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Phạm Thị T3, sinh năm 1954 (xin vắng mặt) Địa chỉ: 18/01, Khu phố 1, đường N, phường X, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh.

2. Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố Hồ Chí Minh.

Địa chỉ: 63 Lý Tự Trọng, phường Bến Nghé, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh Người đại diện theo ủy quyền: Ông Trần Văn T4 – Chức vụ: Chuyên viên (xin vắng mặt) (Văn bản ủy quyền ngày 16/5/2019) 3. Ủy ban nhân dân Quận 12 (xin vắng mặt) Địa chỉ: số 01 đường R, phường A, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh - Người kháng cáo: Bị đơn là ông Lê Tấn T1.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn là ông Nguyễn Minh Đ (có bà Nguyễn Thị Nam G đại diện theo ủy quyền) và bà Nguyễn Thị Bích T (có ông Nguyễn Minh Đ đại diện theo ủy quyền) trình bày:

Tha đất số 666, tờ bản đồ số 65 có diện tích 668,4m2 (thuộc một phần thửa 204, tờ bản đồ số 65 theo tài liệu năm 2004-2005) có nguồn gốc do cha của bà Phạm Thị T3 là ông Phạm Văn B đứng bộ cũ, sau khi ông B chết thì để lại cho bà T3 sử dụng. Ngày 09/01/2012, bà T3 được Ủy ban nhân dân Quận 12 cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BE 545689, số vào sổ CH03218 đối với toàn bộ phần đất tranh chấp nêu trên. Năm 2016, bà T3 chuyển nhượng cho vợ chồng ông Nguyễn Minh Đ và đã được Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố Hồ Chí Minh cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CD 348757, số vào sổ CS11368 ngày 01/8/2016 đứng tên ông Nguyễn Minh Đ và bà Nguyễn Thị Bích T. Bà T3 đã giao cho ông Đ toàn bộ diện tích đất chuyển nhượng theo giấy chứng nhận nhưng ông Lê Tấn T1 cản trở đối với phần đất ở giữa là chuồng bò khoảng 42,1m2. Việc ông T1 làm chuồng bò trên phần đất tranh chấp thuộc giấy chứng nhận của ông Đ là ảnh hưởng đến quyền lợi của ông Đ. Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu ông T1 tháo dỡ chuồng bò, trả lại phần đất 42,1m2 cho gia đình nguyên đơn. Theo biên bản thẩm định giá ngày 21/02/2020, ông T1 xác định giá xây dựng chuồng bò khoảng 20.000.000 đồng. Ông Đ và bà T đồng ý hoàn lại số tiền trên cho ông T1.

Trước đây, tại đơn khởi kiện, nguyên đơn có yêu cầu bà T3 tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng và bàn giao đất nhưng bà T3 đã giao đất nên ngày 06/10/2017 nguyên đơn xác định chỉ khởi kiện ông T1 về phần đất chuồng bò và có đơn xin rút lại yêu cầu khởi kiện đối với bà T3, xác định ông Lê Tấn T1 là bị đơn còn bà Phạm Thị T3 là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

Đi với yêu cầu phản tố của ông T1 về việc đề nghị hủy các Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CH03218 đã cấp cho bà Phạm Thị T3 vào ngày 09/01/2012, cập nhật sang tên ông Nguyễn Minh Đ ngày 17/5/2016, và số CS11368 đã cấp cho ông Nguyễn Minh Đ, bà Nguyễn Thị Bích T vào ngày 01/8/2016, và công nhận quyền sử dụng đất thửa đất số 666, tờ bản đồ số 65 có diện tích 668,4m2 là của bà nội Phạm Thị A để lại cho ông T1 thì nguyên đơn không đồng ý.

Bị đơn là ông Lê Tấn T1 trình bày tại đơn yêu cầu phản tố ngày 09 tháng 5 năm 2018: Phần đất 668,4m2 thuc thửa 666, tờ bản đồ số 65, tọa lạc tại phường Thạnh Xuân, Quận 12 trước đây có nguồn gốc của bà nội ông T1 là Phạm Thị A để lại cho ông T1. Ông T1 và bà A ở trên diện tích đất này từ năm 1990 trong căn nhà nhỏ trên đất, sau này do nhu cầu ở cần diện tích nhà rộng hơn nên gia đình đã làm nhà ở khu khác còn căn nhà cũ đã dùng làm chuồng bò. Phần đất trên ông T1 quản lý sử dụng ổn định và thực hiện nghĩa vụ thuế đối với nhà nước. Nay được biết phần đất trên Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố Hồ Chí Minh đã cấp Giấy chứng nhận cho bà T3 và sau này đã đổi sổ đứng tên ông Đ và bà T nên ông T1 có yêu cầu phản tố yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH03218 đã cấp cho bà Phạm Thị T3 vào ngày 09/01/2012 và hủy Giấy chứng nhận đã sang tên ông Nguyễn Minh Đ và bà Nguyễn Thị Bích T số CS11368 ngày 01/8/2016, công nhận quyền sử dụng đất đối với phần đất nêu trên là của ông T1.

Người có quyền, nghĩa vụ liên quan:

1/ Bà Phạm Thị T3 trình bày:

Cha bà là ông Phạm Văn B mua đất trước năm 1975, có giấy tờ do chế độ cũ cấp diện tích khoảng 2100m2 đt ở xã Thạnh Lộc, huyện Hóc Môn sau này là phường Thạnh Xuân, Quận 12. Bà Phạm Thị A là chị ruột của cha bà. Khoảng năm 1980, cha bà cho bà A cất nhờ nhà trên đất đã mua và bà A sống chung với con trai (đã chết) và 3 cháu nội trong đó có ông Lê Tấn T1. Sau này chỉ còn ông T1 sống trên đất. Trong số 2100m2 đất thì cha bà chia cho các con nên diện tích đất còn lại khoảng 1000m2. Khoảng năm 2000, ông T1 tự ý trồng cây ăng ten trên đất nên bà ngăn cản. Sau đó hai bên thương lượng, bà T3 lấy khoảng 600m2 đất còn ông T1 khoảng 400m2. Ông T1 đồng ý và tự nguyện đưa chứng minh nhân dân và hộ khẩu cho bà T3 đi làm giấy tờ đất. Phần chuồng bò làm trên đất của bà T3 và ông T1 hứa sẽ tháo dỡ khi nào bà T3 cần. Khi có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, bà đã chuyển nhượng lại cho ông Đ và bà T thửa 666, tờ bản đồ số 65, tọa lạc tại phường Thạnh Xuân, Quận 12. Thủ tục đã hoàn tất và cập nhật sang tên theo giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất số CD 348757 do Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 01/8/2016. Bà T3 đã giao đất cho ông Đ bà T theo hợp đồng chuyển nhượng. Tuy nhiên, ông T1 cản trở không tháo dỡ chuồng bò như đã thỏa thuận. Nay đề nghị ông T1 tháo dỡ chuồng bò trả lại đất cho ông Đ. Đối với yêu cầu phản tố của ông T1 thì bà T3 không đồng ý.

2/ Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố Hồ Chí Minh do ông Trần Văn T4 trình bày trong bản tự khai ngày 23/10/2019:

Vị trí thửa đất số 666, tờ bản đồ số 65 (tài liệu 2004-2005) phường Thạnh Xuân, Quận 12 đã được Uỷ ban nhân dân Quận 12 cấp Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CH03218 ngày 09/01/2012 cho bà Phạm Thị T3 với diện tích 668,4m2, mục đích sử dụng đất: Trồng cây lâu năm khác.

Ngày 27/4/2016, bà T3 chuyển nhượng cho ông Nguyễn Minh Đ theo Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất Số công chứng 0007002 quyển số 4/TP/CC-SCC/HĐGD được Văn phòng công chứng Nhà Rồng chứng nhận.

Ngày 17/5/2016 Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai Quận 12 xác nhận đăng ký thay đổi chủ sử dụng đứng tên Nguyễn Minh Đ theo hồ sơ số 003244.CN.001 ngày 13/5/2016 trên trang 3 GCN số CH03218 ngày 09/01/2012.

Ngày 04/7/2016, Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai Quận 12 tiếp nhận hồ sơ của ông Nguyễn Minh Đ và bà Nguyễn Thị Bích T đề nghị cấp đổi GCN nhận số CH03218 ngày 09/01/2012. Ngày 13/7/2016, Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai Quận 12 có tờ trình số 2700/TTr-CNQ12 trình Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố, Văn phòng đăng ký đất đai Thành phố về việc giải quyết hồ sơ của ông Nguyễn Minh Đ và bà Nguyễn Thị Bích T.

Ngày 01/8/2016, Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố ký cấp GCN số CS11368 cho ông Nguyễn Minh Đ và bà Nguyễn Thị Bích T. (GCN Số GCN số CS11368 ngày 01/8/2016 là cấp đổi sổ GCN số GCN số CH03218 ngày 09/01/2012.

Nhận thấy Giấy chứng nhận số CS11368 ngày 01/8/2016 của Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố ký cấp GCN số CS11368 cho ông Nguyễn Minh Đ và bà Nguyễn Thị Bích T là đúng quy định.

Tại Đơn xin vắng mặt ngày 23/10/2019, ông Trần Văn T4 đề nghị giải quyết vắng mặt trong quá trình giải quyết vụ án tại Tòa án nhân dân các cấp.

3/ Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ủy ban nhân dân Quận 12 có văn bản số 4765/UBND-TNMT ngày 26/6/2020 và Văn bản số 5627/UBND- TNMT ngày 23/7/2020 trình bày:

Ngày 29/9/2011, bà Phạm Thị T3 nộp đơn đăng ký cấp giấy chứng nhận đối với phần đất thuộc thửa 39, tờ bản đồ số 14 (theo tài liệu 02/CT-UB), xã Thạnh Lộc, huyện Hóc Môn, nay thuộc thửa 666, tờ bản đồ số 65 (theo tài liệu 2005), phường Thạnh Xuân, Quận 12; Ranh giới đất xác định theo Bản đồ hiện trạng vị trí số 45400/TNMT ngày 09/12/2011.

Ngày 16/11/2011, Ủy ban nhân dân phường Thạnh Xuân xác nhận về nguồn gốc quá trình sử dụng đất trên đơn đăng ký cấp giấy chứng nhận của bà Phạm Thị T3 như sau: “Đất có nguồn gốc do ông Phạm Văn B đứng bộ cũ (chết), sau đó để lại cho con là Phạm Thị T3 sử dụng ổn định từ năm 1975 đến nay”.

Ngày 09/01/2012, Ủy ban nhân dân Quận 12 cấp giấy chứng nhận số CH03218 cho bà Phạm Thị T3 phần nhà đất trên.

Năm 2016, bà Phạm Thị T3 chuyển nhượng phần đất trên cho ông Nguyễn Minh Đ theo Hợp đồng số 003244.CN.001 ngày 13/5/2016 được Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai Quận 12 xác nhận theo hồ sơ số 003244.CN.001 ngày 13/5/2016.

Ngày 01/8/2016, Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố ký cấp GCN số CS11368 cho ông Nguyễn Minh Đ và bà Nguyễn Thị Bích T. (GCN Số GCN số CS11368 ngày 01/8/2016 là cấp đổi sổ GCN số GCN số CH03218 ngày 09/01/2012.

y ban nhân dân Quận 12 nhận thấy Giấy chứng nhận số CH03218 Ủy ban nhân dân Quận 12 cấp ngày 09/01/2012 cho bà Phạm Thị T3 sử dụng là phù hợp theo quy định tại Khoản 4 Điều 50 Luật đất đai năm 2003.

Về yêu cầu phản tố của ông Lê Tấn T1 về việc yêu cầu hủy Giấy chứng nhận số CH03218 Ủy ban nhân dân Quận 12 cấp ngày 09/01/2012 cho bà Phạm Thị T3, Ủy ban nhân dân Quận 12 đề nghị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh không chấp nhận. Đồng thời, Ủy ban nhân dân Quận 12 đề nghị giải quyết vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 1427/2020/DS-ST ngày 08 tháng 9 năm 2020 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Minh Đ và bà Nguyễn Thị Bích T.

1/ Buộc bị đơn ông Lê Tấn T1 phải tháo dỡ chuồng bò có diện tích 42,1 m2 thuc Thửa đất số 666, tờ bản đồ số 65 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CS11368 ngày 01/8/2016 do Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố Hồ Chí Minh cấp cho ông Nguyễn Minh Đ và bà Nguyễn Thị Bích T.

Ghi nhận sự tự nguyện của ông Nguyễn Minh Đ và bà Nguyễn Thị Bích T về việc hỗ trợ cho ông Lê Tấn T1 số tiền 20.000.000 (hai mươi triệu) đồng tiền giá trị xây dựng chuồng bò có diện tích 42,1 m2.

2/ Đình chỉ xét xử yêu cầu phản tố của bị đơn ông Lê Tấn T1 về việc yêu cầu yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CS11368 ngày 09/01/2012 do Ủy ban nhân dân Quận 12 cấp cho bà Phạm Thị T3 và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CS11368 ngày 01/8/2016 do Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố Hồ Chí Minh cấp cho ông Nguyễn Minh Đ và bà Nguyễn Thị Bích T.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí, chi phí tố tụng và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 17/11/2020 bị đơn là ông Lê Tấn T1 kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.

Tại phiên toà phúc thẩm:

Bị đơn là ông Lê Tấn T1 (có ông Nguyễn Đình P đại diện theo ủy quyền) vẫn giữ kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm, hủy bản án dân sự sơ thẩm do có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng như:

- Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm không triệu tập ông Lê Tấn T1 và ông Nguyễn Hữu Quốc là người đại diện theo ủy quyền của ông T1 tham gia quá trình tố tụng, hòa giải và xét xử.

- Về nội dung, việc thu thập chứng cứ về nguồn gốc đất đang tranh chấp chưa đầy đủ, ông T1 là người thực tế sử dụng đất từ trước đến nay, đóng thuế đầy đủ cho Nhà nước, bà T3 không có sử dụng phần đất này. Khi Ủy ban nhân dân Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà T3 thì ông T1 không B, hồ sơ cấp giấy ông T1 không có ký giáp ranh cho bà T3.

Nguyên đơn là ông Nguyễn Minh Đ (có bà Nguyễn Thị Nam G đại diện theo ủy quyền) và bà Nguyễn Thị Bích T (có ông Nguyễn Minh Đ đại diện theo ủy quyền) thống nhất khai nhận, không đồng ý kháng cáo, yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo và giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm:

Về tố tụng: Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Những người người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng các quy định pháp luật.

Về nội dung: Tại phiên tòa phúc thẩm, ông T1 kháng cáo về tố tụng là không có cơ sở chấp nhận vì hồ sơ vụ án thể hiện quá trình thu thập chứng cứ và hòa giải tại Tòa án cấp sơ thẩm, đại diện theo ủy quyền của bị đơn có biết, có đến tòa và xin hoãn hòa giải. Khi xét xử, Tòa án cấp sơ thẩm đã thực hiện thủ tục tống đạt, niêm yết đầy đủ thủ tục. Do vậy, kháng cáo này không có cơ sở chấp nhận.

Bản án của Tòa án cấp sơ thẩm xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị đơn kháng cáo nhưng không cung cấp được tài liệu chứng cứ chứng minh cho yêu cầu kháng cáo nên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo và giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến phát biểu của Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Tòa án đã triệu tập hợp lệ lần thứ hai, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Phạm Thị T3, Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố Hồ Chí Minh và Ủy ban nhân Quận 12, xin xét xử vắng mặt. Căn cứ Điều 296 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử phúc thẩm vụ án vắng mặt các đương sự này.

[2] Theo đơn kháng cáo ngày 17/11/2020, bị đơn cho rằng ông Phạm Hữu Q (đại diện theo ủy quyền của ông T1 ở cấp sơ thẩm) không nhận được thông báo của Tòa án cấp sơ thẩm về việc hòa giải và đưa vụ án ra xét xử. Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện theo ủy quyền của bị đơn là ông Nguyễn Đình P cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm xét xử, nhưng không thông báo cho bị đơn là vi phạm tố tụng, và không thu thập chứng cứ làm rõ nguồn gốc đất do bà nội ông T1 để lại nên kháng cáo yêu cầu hủy bản án dân sự sơ thẩm.

[3] Hồ sơ vụ án thể hiện, ông Phạm Hữu Q có địa chỉ liên lạc tại số 11, đường số 1, phường An Phú, Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh.

[3.1] Tại mục [4] bản án của Tòa án cấp sơ thẩm nhận định: “Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã tống đạt hợp lệ quyết định mở phiên tòa xét xử vụ án 03 lần vào những ngày 23/7/2020, 13/8/2020, 08/9/2020 nhưng ông Phạm Hữu Q là người đại diện theo ủy quyền của ông Lê Tấn T1 vắng mặt không có lý do nên Hội đồng xét xử căn cứ điểm c khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, đình chỉ xét xử đối với yêu cầu phản tố của ông Lê Tấn T1”.

[3.2] Quá trình Tòa án cấp sơ thẩm thu thập chứng cứ, tiến hành xem xét, thẩm định tại chỗ và hòa giải khi giải quyết vụ án thì ông Q vẫn nhận được văn bản tố tụng theo địa chỉ trên, thể hiện qua đơn xin hoãn phiên tòa ngày 09/01/2020 và 18/5/2020 (BL 226, 228). Nhưng khi Tòa án cấp sơ thẩm có Quyết định đưa vụ án ra xét xử và tống đạt giấy triệu tập thì ông Q không còn cư trú tại địa chỉ trên (theo xác nhận của Trưởng khu phố 5, phường An Phú tại Biên bản về việc không thực hiện được việc tống đạt). Do ông Q thay đổi địa chỉ cư trú nhưng không thông báo, không cung cấp địa chỉ mới, nên Tòa án cấp sơ thẩm đã thực hiện việc niêm yết giấy triệu tập, quyết định đưa vụ án ra xét xử đúng quy định pháp luật. Do đó, khai nhận và nội dung kháng cáo này của bị đơn là không có căn cứ chấp nhận.

[3.3] Tuy nhiên, hồ sơ vụ án thể hiện, ông Lê Tấn T1 có vợ là bà Lầu Thị P1 và các con là Lê Tấn T5, Lê Tấn C, Lê Thị Bích T6, Lê Thị Ánh T7 và các trẻ như Lê Thị T8, Lê Tấn Đ1 và Lê Thị Như Q1 (có ông T1 và bà P1 đại diện theo pháp luật) cũng đang quản lý, sử dụng phần đất đang tranh chấp. Quá trình thu thập chứng cứ và hòa giải, Tòa án cấp sơ thẩm xác định vợ con của ông T1 là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án là phù hợp nhưng tại bản án của Tòa án cấp sơ thẩm không đưa những người đang quản lý, sử dụng đất này vào tham gia tố tụng là thiếu sót, làm cho những người này không thực hiện được quyền, nghĩa vụ tố tụng của mình, dẫn đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ không được đảm bảo theo quy định của pháp luật.

[4] Về nội dung: Ngày 09/01/2012, Uỷ ban nhân dân Quận 12 cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với phần đất có diện tích 668,4m2 thuc thửa 666, tờ bản đồ số 65 cho bà Phạm Thị T3. Năm 2016, bà T3 chuyển nhượng quyền sử dụng phần đất trên cho ông Nguyễn Minh Đ, và đã được Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố Hồ Chí Minh cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho ông Đ. Trên phần đất có chuồng bò diện tích 42,1m2 do gia đình ông Lê Tấn T1 sử dụng.

Bị đơn là ông Lê Tấn T1 cho rằng phần đất trên có nguồn gốc của bà Phạm Thị A (bà nội ông T1) để lại.

Bà Phạm Thị T3 trình bày, nguồn gốc phần đất tranh chấp là do ông Phạm Văn B (cha bà T3) đứng bộ cũ từ năm 1975, diện tích khoảng 2.100m2. Năm 1980, bà Phạm Thị A (em gái ông B, bà nội ông T1) được ông B cho ở nhờ trên đất. Sau khi phân chia cho các con, phần diện tích còn lại khoảng 1.000m2. Trong đó, bà T3 và ông T1 đã thỏa thuận bà T3 sử dụng 600m2, ông T1 sử dụng 400m2.

[5] Hồ sơ vụ án thể hiện, tại văn bản số 19258/VPĐK-KTĐC ngày 12/12/2017 của Văn phòng đăng ký đất đai thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố Hồ Chí Minh thể hiện, vị trí của phần đất tranh chấp qua các thời kỳ như sau:

- Tài liệu trước năm 1975 là một phần bằng khoán số 961, tờ bản đồ số 9 Qưới Xuân Thôn.

- Tài liệu Chỉ thị 299/TTg là một phần thửa số 126, tờ bản đồ 2 xã Thạnh Lộc, huyện Hóc Môn diện tích 7.328m2, chủ sử dụng: Thổ tập trung.

- Tài liệu Chỉ thị 02/CT-UB là một phần thửa số 39, tờ bản đồ số 14, xã Thanh Lộc, huyện Hóc Môn diện tích 1.163m2, tên chủ sử dung: Phạm Thị T3.

- Tài liệu bản đồ địa chính (năm 2005) là một phần thửa 204 (thửa chính thức số 666), tờ bản đồ số 65, phường Thạnh Xuân, Quận 12, diện tích 1.098,3m2, chủ sử dụng: Lê Tấn T1.

Như vậy, phần đất tranh chấp về tài liệu địa chính qua các thời kỳ có sự thay đổi về số thửa và chủ sử dụng đất, các đương sự khai nhận khác nhau về nguồn gốc của người sử dụng đất. Lẽ ra, Tòa án cấp sơ thẩm phải thu thập chứng cứ làm rõ nguồn gốc đất là của ông B hay bà A, vì sao có sự thay đổi chủ sử dụng đất qua từng thời kỳ. Trường hợp có cơ sở xác định đất của 01 trong 02 người này thì phải thu thập chứng cứ đưa hàng thừa kế thứ nhất vào tham gia tố tụng nhưng cấp sơ thẩm không thực hiện việc thu thập chứng cứ trên và xét xử chấp nhận khởi kiện của nguyên đơn là chưa đủ cơ sở vững chắc.

[6] Theo bản đồ hiện trạng vị trí xác định ranh ngày 22/11/2017 của Trung tâm đo đạc bản đồ Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố Hồ Chí Minh, và Văn bản số 19258/VPĐK-KTĐC ngày 12/12/2017 của Văn phòng đăng ký đất đai thể hiện, thửa 666 là một phần thửa 204. Diện tích của thửa 204 là 1.098,3m2. Diện tích thửa 666 là 668,4m2. Theo đó, phần diện tích còn lại thửa 204 (sau khi trừ thửa 666) là 429,9m2, nhưng Thông báo nộp thuế sử dụng đất của Chi cục thuế Quận 12 đối với ông Lê Tấn T1 (do bị đơn cung cấp) thể hiện phần đất ông T1 phải chịu thuế có diện tích 1.098,3m2 thuc thửa 204. Do đó, cần phải làm rõ ông T1 được quyền quản lý sử dụng toàn bộ thửa 204 hay chỉ một phần thửa 204 (sau khi trừ thửa 666) vì giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho bà T3 sau này là cấp cho ông Đ đều thể hiện đất cấp một phần thửa 204. Bản án của Tòa án cấp sơ thẩm chưa làm rõ nội dung này là chưa đủ căn cứ để xem xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

[7] Tại biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 03/5/2018 của Tòa án cấp sơ thẩm chỉ thẩm định thửa 666, có nội dung: Phần đất ông Đ mua của bà T3 không có xây dựng, đất trống chỉ có cây dại và 01 (một) ao nước, có chuồng bò của ông T1. Bà T3 xác định không có sử dụng phần đất này do gia đình ông T1 ngăn cản. Ông T1 trình bày cây tràm trên phần đất tranh chấp là do ông trồng. Theo kết quả xem xét, thẩm định tại chỗ này thì chưa đủ cơ sở xác định phần đất thửa 666 là do ai đang quản lý sử dụng. Để có căn cứ giải quyết vụ án thì Tòa án phải thẩm định xem xét toàn bộ phần đất thuộc thửa 204 để xác định phần diện tích đất thực tế nguyên đơn, bị đơn đang sử dụng; Phần đất đang tranh chấp do ai quản lý sử dụng.

[8] Tại biên bản lấy lời khai ngày 28/11/2017 (BL 83), bà T3 khai nhận bà và ông T1 thương lượng bà T3 lấy lại 668m2 còn ông T1 lấy 400m2, nhưng tại biên bản hoà giải ngày 10/01/2018 (BL 124-126) bà T3 lại xác định bà T3 lấy lại 400m2, còn ông T1 lấy khoảng 600m2 là có sự mâu thuẫn. Do đó, cần phải thu thập chứng cứ xác định lời khai nào đúng.

[9] Ngoài ra, tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn khai nhận ban đầu khi khởi kiện chỉ yêu cầu tháo dỡ chuồng bò có diện tích 16,2m2 nhưng về sau chuồng bò này được nới rộng ra hơn 42,1m2. Tại biên bản thẩm định tại chỗ cũng thể hiện, hiện trạng phần đất tranh chấp có một phần bờ tường đã bị đập chỉ còn vết tường còn lại cao khoảng 3cm, bề ngang khoảng 1 viên gạch, chạy dài khoảng 8m. Phần tường gạch nằm về phía nhà ông T1. Theo lời trình bày của bà T3 thì ông T1 cũng đang sử dụng phần đất này, do đó, cần làm rõ đây có phải là ranh đất của hai bên hay là chuồng bò trước đây tháo bỏ hoặc cơi nới thêm.

[10] Hồ sơ vụ án thể hiện, cơ sở để bà T3 cho rằng có quyền sử dụng đối với phần đất đang tranh chấp là giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH03218 ngày 09/01/2012 do Uỷ ban nhân dân Quận 12 cấp. Bà T3 trình bày ông T1 là người cung cấp chứng minh nhân dân, hộ khẩu để bà đi làm giấy tờ. Đại diện theo ủy quyền của bị đơn trình bày ông T1 không B việc bà T3 được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà T3 không có văn bản thể hiện ý kiến, chữ ký của ông T1 với tư cách là người giáp ranh. Phiếu lấy ý kiến khu dân cư, do chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai Quận 12 cung cấp cũng không lấy ý kiến ông T1. Do đó, cần phải thu thập chứng cứ làm rõ khi xét cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà T3, thì cơ quan có thẩm quyền có xác minh, kiểm tra phần đất trên thực tế hay không, chuồng bò trên phần đất được hình thành từ thời điểm nào, trước hay sau khi bà T3 được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, để chứng minh cho lời trình bày của các bên đương sự.

[11] Ngoài ra, tại phần quyết định của bản án của Tòa án cấp sơ thẩm tuyên buộc bị đơn tháo dỡ phần chuồng bò để trả lại diện tích đất 42,1m2 thuc thửa đất số 666, tờ bản đồ số 65 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CS11368 ngày 01/8/2016 do Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố Hồ Chí Minh cấp cho ông Nguyễn Minh Đ và bà Nguyễn Thị Bích T nhưng không xác định rõ vị trí và kích thước phần công trình phải tháo dỡ, trong khi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất CS11368 nêu trên lại không thể hiện chuồng bò, là không đảm bảo cho việc thi hành án.

[12] Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử xét thấy, bản án của Tòa án cấp sơ thẩm nhận định căn cứ vào lời trình bày của bà T3 phù hợp với sổ mục kê tài liệu theo Chỉ thị 02/CT-UB có nội dung: Thửa đất số 39 có diện tích 1.163m2 do bà Phạm Thị T3 sử dụng, để chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là chưa đủ căn cứ vững chắc, thu thập chứng cứ chưa đầy đủ, đưa thiếu người tham gia tố tụng mà cấp phúc thẩm không thể khắc phục được nên chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của bị đơn, hủy toàn bộ bản án sơ thẩm và giao hồ sơ vụ án về cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm. Lập luận trên cũng là căn cứ không chấp nhận đề nghị giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa.

[13] Do bản án của Tòa án cấp sơ thẩm bị hủy như đã nêu tại mục [12] nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết nội dung vụ án.

[14] Về án phí dân sự phúc thẩm: Bị đơn là ông Lê Tấn T1 không phải chịu, theo quy định pháp luật án phí, lệ phí của Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 3 Điều 308, Điều 310 của Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận một phần kháng cáo của bị đơn là ông Lê Tấn T1.

Hy toàn bộ bản án dân sự sơ thẩm số 1427/2020/DS-ST ngày 08/9/2020 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh; Chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.

2. Án phí dân sự phúc thẩm: Ông Lê Tấn T1 không phải chịu. Hoàn trả cho ông Lê Tấn T1 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp theo biên lai thu số 0093358 ngày 24/12/2020 của Cục thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

139
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp QSDĐ, hủy giấy chứng nhận QSDĐ số 274/2022/DS-PT

Số hiệu:274/2022/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 27/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;