TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CẦN THƠ
BẢN ÁN 13/2021/HN-PT NGÀY 09/06/2021 VỀ TRANH CHẤP NUÔI CON
Trong ngày 09 tháng 6 năm 2021 tại trụ sở tòa án nhân dân Thành phố Cần Thơ xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 27/2021/TLPT- HNGĐ ngày 04 tháng 3 năm 20201 về tranh chấp: “Ly hôn, nuôi con”.
Do bản án dân sự sơ thẩm số 05/2021/HNGĐ-ST ngày 11 tháng 01 năm 2021 của Toà án nhân dân quận K bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 45/2021/QĐ-PT ngày 06 tháng 4 năm 2021 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Phan Thanh P, sinh năm 1983.
Địa chỉ: phường C, quận K, thành phố Cần Thơ
- Bị đơn: Bà Nguyễn Mộng Đ, sinh năm 1981.
Địa chỉ: phường C, quận K, thành phố Cần Thơ.
Chổ ở hiện tại: Đường B20, khu dân cư P1, phường P, quận R, thành phố Cần Thơ.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn – ông Phan Thanh P - trình bày:
Ông và bà Nguyễn Mộng Đ tự nguyện chung sống với nhau, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân phường C, quận K, thành phố Cần Thơ cấp giấy chứng nhận kết hôn vào năm 2013. Ông bà có 02 con chung tên Phan Huỳnh Bảo N (nữ) và Phan Thanh Q (nam) cùng sinh ngày 16/3/2016. Trong thời gian chung sống giữa vợ chồng cũng có những mâu thuẫn nhỏ như bao vợ chồng khác. Tuy nhiên đến khoảng năm 2018 mâu thuẫn vợ chồng bắt đầu trầm trọng hơn. Bà Đ không quan tâm đến gia đình, bỏ bê con cái dù con còn nhỏ. Lý do là bà Nguyễn Mộng Đ theo một đạo giáo mà hiện tại chưa được công nhận. Ông khuyên can nhưng bà Đ không từ bỏ. Đến khoảng tháng 4/2020, thì bà Đ đi theo nhóm người theo đạo luôn, để hai con cho ông và cha mẹ ông chăm sóc. Thứ ba hàng tuần bà Đ về nhà thăm 02 con rồi đi. Ông đã tìm mọi cách như nhờ gia đình hai bên khuyên nhủ; nhờ chính quyền địa phương hòa giải, xem xét; tìm những người trong nhóm cùng theo đạo của bà Đ để mong bà Đ quay lại với gia đình nhưng không đạt kết quả. Đến nay, ông xác định tình cảm vợ chồng không còn nên ông xin ly hôn và xin được trực tiếp nuôi dưỡng giáo dục 02 con chung, không yêu cầu bà Đ cấp dưỡng nuôi con. Ông có đủ điều kiện kinh tế để chăm sóc, giáo dục cho 02 con (có công việc ổn định, có thu nhập, có cha mẹ ruột hỗ trợ cùng chăm sóc cho 02 con…). Từ khi bà Đ đi khỏi nhà thì các con vẫn đi học, sinh hoạt bình thường, sức khỏe tốt. Ông và bà Đ không có tài sản chung và nợ chung.
Bị đơn bà Nguyễn Mộng Đ trình bày:
Bà thống nhất với phần trình bày của ông P về quá trình tiến đến hôn nhân, con chung tài sản chung và nợ chung. Bà cũng nhận thấy giữa ông bà có mâu thuẫn nhưng do niềm tin tôn giáo nên bà không thể đồng ý ly hôn theo yêu cầu của ông P. Bà muốn lựa chọn cả hai là chồng con và tôn giáo tín ngưỡng. Bà luôn muốn có cơ hội thể hiện trách nhiệm của người làm vợ, làm mẹ. Hiện tại bà sống nhờ nhà một người bạn cùng theo đạo như bà tại quận Cái Răng, thành phố Cần Thơ. Trường hợp Tòa án chấp nhận yêu cầu ly hôn của ông P thì bà thống nhất theo ý kiến của ông P về con cái, nếu ông P yêu cầu nuôi hai con thì bà đồng ý giao hai con cho ông P nuôi, nếu ông P giao hai con cho bà nuôi thì bà cũng đồng ý và không yêu cầu ông P cấp dưỡng nuôi con.
Tại bản án số 05/2021/HNGĐ-ST ngày 11 tháng 01 năm 2021 Tòa án nhân dân quận K đã xét xử và Quyết định như sau:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Phan Thanh P.
- Về quan hệ hôn nhân: Ông Phan Thanh P được ly hôn với bà Nguyễn Mộng Đ.
- Về con chung: Giao 02 con chung tên Phan Huỳnh Bảo N(nữ) và Phan Thanh Q (nam) cùng sinh ngày 16/3/2016 cho ông Phan Thanh P trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục. Ông P không yêu cầu bà Đ cấp dưỡng nuôi con.
Việc thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung là quyền và nghĩa vụ của người không trực tiếp nuôi con mà không ai được cản trở.
- Về tài sản chung: Ông P và bà Đ xác định không có nên không xem xét.
- Về nợ chung: Ghi nhận lời trình bày của ông P, bà Đ là không có nợ chung. Nếu sau này phát sinh tranh chấp và có đơn kiện sẽ được xem xét giải quyết thành vụ kiện khác.
Về án phí:
Án phí hôn nhân sơ thẩm: Ông Phan Thanh P phải chịu 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng), cấn trừ vào 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng)tiền tạm ứng án phí ông P đã nộp theo biên lai thu số 002876 ngày 30/7/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự quận K, thành phố Cần Thơ thì ông P đã nộp đủ tiền án phí.
Nguyên đơn đã nộp xong tiền án phí.
Ngoài ra bản án còn tuyên về quyền – thời hạn kháng cáo và Điều 26 Luật thi hành án dân sự.
Ngày 25 tháng 01 năm 2021 bị đơn bà Nguyễn Mộng Đ có đơn kháng cáo với nội dung: Kháng cáo một phần bản án sơ thẩm do án sơ thẩm số 05/2021/HNGĐ – ST ngày 11/01/2021 của Toà án nhân dân quận K về quyền nuôi con. Bà yêu cầu cấp phúc thẩm chấp nhận đơn kháng cáo và yêu cầu được nuôi con của bà.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa phát biểu;
Về thực hiện pháp luật Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa và Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý đến khi đưa vụ án ra xét xử theo trình tự phúc thẩm. Các đương sự trong vụ án đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự đối với người tham gia tố tụng. Đơn và thời hạn nộp tạm ứng kháng cáo của nguyên đơn trong hạn luật định nên được xem là hợp lệ về mặt hình thức. Sau khi phân tích nội dung vụ kiện và yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn vị đại diện Viện kiểm sát đề nghị y án sơ thẩm, bác kháng cáo của bị đơn.
Xét nội dung kháng cáo: Bà Đ kháng cáo về việc giành nuôi con chung: Tại cấp sơ thẩm ông P và bà Đ khai thống nhất có 02 con tên Phan Huỳnh Bảo N(nữ) và Phan Thanh Q (nam) cùng sinh ngày 16/3/2016. Sau khi ly hôn, ông P yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục 02 con chung, không yêu cầu bà Đ cấp dưỡng nuôi con. Bà Đ ban đầu thống nhất với yêu cầu của ông P nhưng tại phiên tòa phúc thẩm bà yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục 02 con chung, không yêu cầu ông P cấp dưỡng nuôi con. Bà cho rằng do không nghĩ đến vấn đề ly hôn nên từ khi rời khỏi nhà đến nay bà vẫn sống nhờ nhà một người bạn, bà có công việc là sửa và may đồ, nếu tháng nào ít khách thì thu nhập khoảng 4.000.000đồng, tháng nào đông khách thì thu nhập khoảng 5.000.000đồng đến 6.000.000đồng, nếu được giao nuôi con thì bà sẽ đưa các con về quê sống với cha mẹ ruột của bà. Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy, từ khi bà Đ rời khỏi nhà thì hai cháu Ngọc và Quang do ông P trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc; hai cháu vẫn đi học, sinh hoạt, phát triển tốt và có xác nhận của địa phương cũng như trường học. Mặt khác, ông P có chỗ ở, công việc và thu nhập ổn định đảm bảo cuộc sống cho các cháu. Do đó, để ổn định cuộc sống của các cháu, đảm bảo các cháu được chăm lo, học tập, phát triển lành mạnh về mọi mặt nên giao 02 con chung cho ông P trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục là phù hợp.
Ý kiến vị đại diện Viện kiểm sát trùng hợp với nhận định của Hội đồng xét xử phúc thẩm nên đề nghị y án sơ thẩm không chấp nhận kháng cáo của bị đơn là có cơ sở.
Các phần khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị nên cấp phúc thẩm không đặt ra xem xét lại.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ: Khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự;
- Các Điều 51, 56, 57, 81, 82, 83 và 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;
- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên án:
1. Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn, y án sơ thẩm.
Giao 02 con chung tên Phan Huỳnh Bảo N (nữ) và Phan Thanh Q (nam) cùng sinh ngày 16/3/2016 cho ông Phan Thanh P trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục. Ông P không yêu cầu bà Đ cấp dưỡng nuôi con.
Việc thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung là quyền và nghĩa vụ của người không trực tiếp nuôi con mà không ai được cản trở.
2. Án phí hôn nhân sơ thẩm: Ông Phan Thanh P phải chịu 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng), cấn trừ vào 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí ông P đã nộp theo biên lai thu số 002876 ngày 30/7/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự quận K, thành phố Cần Thơ thì ông P đã nộp đủ tiền án phí.
3. Án phí hôn nhân phúc thẩm: Bà Nguyễn Mộng Đ phải chịu 300.000đồng được khấu trừ vào biên lai thu số 003637 ngày 28/01/2021 của Chi cục Thi hành án quận K, đã thực hiện xong.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./
Bản án về tranh chấp nuôi con số 13/2021/HN-PT
Số hiệu: | 13/2021/HN-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Cần Thơ |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 09/06/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về