TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CÀNG LONG, TỈNH TRÀ VINH
BẢN ÁN 43/2022/HNGĐ-ST NGÀY 20/09/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ TRANH CHẤP QUYỀN NUÔI CON
Trong ngày 20 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Càng Long, tỉnh Trà Vinh mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 249/2022/TLST- HNGĐ, ngày 23 tháng 6 năm 2022 về “Tranh chấp ly hôn và tranh chấp quyền nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 159/2022/QĐXXST-HN ngày 15 tháng 8 năm 2022 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: bà Trần Thị Minh T, sinh năm 1980 (yêu cầu xét xử vắng mặt).
Địa chỉ: ấp T, xã P, huyện C, tỉnh Trà Vinh.
Bị đơn: ông Hà Văn T, sinh năm 1977 (vắng mặt không lý do).
Địa chỉ: ấp T, xã P, huyện C, tỉnh Trà Vinh.
Con chung của bà T và ông T tên: Hà Trần Thanh T, sinh ngày 20/7/2008 và Hà Trần Thanh L, sinh ngày 28/11/2013. Địa chỉ: ấp T, xã P, huyện C, tỉnh Trà Vinh (yêu cầu xét xử vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án bà Trần Thị Minh T trình bày: Bà và ông T tự quen biết nhau, tiến đến hôn nhân, có tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã M, huyện C vào ngày 14/5/2003, nữ trang ngày cưới tổng cộng 03 chỉ vàng 24kra, số nữ trang này vợ chồng đã đồng ý bán hết để làm ăn hiện nay không còn, vợ chồng sống hạnh phúc được khoảng 10 năm thì phát sinh mâu thuẫn, vợ chồng thường xuyên cãi vã, mâu thuẫn ngày càng nhiều dẫn đến vợ chồng không thể nào sống chung được nữa, hiện tại hai vợ chồng đã ly thân từ tháng 4 năm 2022 đến nay không hàn gắn được, ông T đã về cha mẹ ruột ở xã M, huyện C sống.
Về con chung: Qúa trình chung sống vợ chồng sinh được 02 người con chung tên Hà Trần Thanh T, sinh ngày 20/7/2008 và Hà Trần Thanh L, sinh ngày 28/11/2013 hiện 02 con đang sống chung với bà.
Về tài sản chung: Quá trình chung sống vợ chồng không có tạo lập tài sản chung.
Về nợ chung: Quá trình chung sống vợ chồng không có thiếu nợ ai và cũng không có ai nợ vợ chồng bà.
Nay bà yêu cầu Tòa án giải quyết các vấn đề như sau:
- Về quan hệ hôn nhân: bà xin được ly hôn với ông Hà Văn T.
- Về con chung tên: Hà Trần Thanh T, sinh ngày 20/7/2008 và Hà Trần Thanh L, sinh ngày 28/11/2013 hiện 02 con đang sống chung với bà, sau khi ly hôn theo nguyện vọng của 02 con sống với ai người đó nuôi dưỡng, không đặt vấn đề cấp dưỡng nuôi con.
- Về tài sản chung; Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Ông Hà Văn T là bị đơn vắng mặt nên không có lời trình bày.
Tại biên bản lấy lời khai cháu Hà Trần Thanh T là con của bà T và ông T trình bày: Cháu là con của bà Trần Thị Minh T và ông Hà Văn T, cháu học lớp 9, trường trung học cơ sở P, hiện đang sống chung với mẹ, sau khi cha mẹ ly hôn nguyện vọng của cháu muốn được sống chung với mẹ là bà Trần Thị Minh T.
Tại biên bản lấy lời khai cháu Hà Trần Thanh L là con của bà T và ông T trình bày: Cháu là con của bà Trần Thị Minh T và ông Hà Văn T, cháu học lớp 4, trường tiểu học P, hiện đang sống chung với mẹ, sau khi cha mẹ ly hôn nguyện vọng của cháu muốn được sống chung với mẹ là bà Trần Thị Minh T.
Vụ kiện đã được Tòa án tiến hành hòa giải nhiều lần nhưng ông Hà Văn T là bị đơn vắng mặt do đó không tiến hành phiên hòa giải được và quyết định đưa vụ án ra xét xử.
Tại phiên tòa hôm nay bà Trần Thị Minh T là nguyên đơn, cháu Hà Trần Thanh T và cháu Hà Trần Thanh L là con của bà T và ông T vắng mặt có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt, đối với ông Hà Văn T là bị đơn vắng mặt lần thứ 02 không có lý do.
Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện C trình bày quan điểm cho rằng: Qua kiểm sát việc giải quyết vụ án từ khi Tòa án thụ lý đến thời điểm này Thẩm phán đã chấp hành đúng theo Điều 48 Bộ luật tố tụng dân sự, đảm bảo về thẩm quyền, quan hệ tranh chấp, xác định tư cách người tham gia tố tụng, thu thập chứng cứ, thời gian ban hành quyết định đưa vụ án ra xét xử, gửi hồ sơ cho Viện kiểm sát, cấp và tống đạt đầy đủ các văn bản tố tụng, đã thực hiện đầy đủ và đúng theo quy định Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa hôm nay, Hội đồng xét xử thực hiện đầy đủ và đúng theo trình tự pháp luật quy định của phiên tòa sơ thẩm.
Việc tuân theo pháp luật tố tụng của người tham gia tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án: Từ khi thụ lý vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định tại Điều 70, 71 Bộ luật tố tụng dân sự. Tuy nhiên phía bị đơn ông Hà Văn T chưa chấp hành nghiêm quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định tại Điều 70, 72 Bộ luật tố tụng dân sự cụ thể ông Hà Văn Tuấn không có mặt trong các phiên hòa giải, công khai chứng cứ mặc dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ.
Về nội dung vụ kiện Vị đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào quy đinh tại các Điều 19, 51, 53, 54, 56, 58, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân gia đình;
Các Điều 28, 35, 39, 147, 227, 228, 238 của Bộ luật tố tụng dân sự;
Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Chấp nhận toàn bộ đơn khởi kiện của bà Trần Thị Minh T.
- Về quan hệ hôn nhân: Cho bà Trần Thị Minh T và ông Hà Văn T được ly hôn.
- Về con chung: Bà Trần Thị Minh T được tiếp tục nuôi dưỡng cháu Hà Trần Thanh T, sinh ngày 20/7/2008 và cháu Hà Trần Thanh L, sinh ngày 28/11/2013.
Ông Hà Văn T được quyền thăm và chăm sóc con chung không ai được ngăn cản.
- Về cấp dưỡng nuôi con: Các đương sự chưa yêu cầu nên không xem xét.
- Về tài sản chung, về nợ chung: Các đương sự chưa yêu cầu, nên không xem xét.
Vị còn đề nghị buộc bà Trần Thị Minh T có nghĩa vụ chịu án phí theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Tại phiên Tòa hôm nay bà Trần Thị Minh T là nguyên đơn, cháu Hà Trần Thanh T và cháu Hà Trần Thanh L là con của bà T và ông T vắng mặt có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt, đối với ông Hà Văn T là bị đơn vắng mặt lần thứ 02 không có lý do, căn cứ Điều 227, Điều 228, Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiếp tục xét xử.
Về xác định quan hệ tranh chấp: Theo yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, thì đây là vụ án “Tranh chấp ly hôn và tranh chấp quyền nuôi con”, thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án theo quy định tại Điều 28, Điều 35, Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về nội dụng vụ án:
[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Hôn nhân của bà Trần Thị Minh T và ông Hà Văn T được xác lập vào năm 2003, có tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã M, huyện C vào ngày 14/5/2003 đúng quy định của pháp luật. Đây là tình tiết không cần phải chứng minh được quy định tại khoản 1 Điều 92 của Bộ luật tố tụng dân sự, từ đó xác định hôn nhân giữa bà T và ông T là hôn nhân hợp pháp.
Xét về nguyên nhân mâu thuẫn: Theo bà T cho rằng vợ chồng sống hạnh phúc được khoảng 10 năm thì phát sinh mâu thuẫn, vợ chồng thường xuyên cãi vã, mâu thuẫn ngày càng nhiều dẫn đến vợ chồng không thể nào sống chung được nữa, hiện tại hai vợ chồng đã ly thân từ tháng 4 năm 2022 đến nay không hàn gắn được, ông T đã về cha mẹ ruột ở xã M, huyện C sống. Trước đây bà T có nộp đơn yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn, sau đó bà T rút đơn lại để vợ chồng hàn gắn nhưng không có kết quả. Nay bà T nhận thấy không còn tình cảm với ông T nên yêu cầu được ly hôn.
Qua xác minh chính quyền địa phương ông Hà Văn T là con của bà Nguyễn Thị L và ông Hà Văn R, sau khi xác lập hôn bà T và ông T sống chung với mẹ vợ tên Trần Thị S, nhập hộ khẩu ấp T, xã P, huyện C, bà T và ông T có mâu thuẫn hay không thì phía chính quyền không rõ, về tài sản chung và nợ chung không nghe nói vì sống chung với bà S, khoảng tháng 4 năm 2022 ông T không còn sống chung nhà với bà T, thỉnh thoảng có về thăm con.
Nay bà T xác nhận vợ chồng không còn tình cảm với nhau và yêu cầu được ly hôn, điều này chứng tỏ tình trạng hôn nhân giữa bà T và ông T là trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, yêu cầu ly hôn của bà T là có căn cứ chấp nhận theo quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân gia đình năm 2014.
[2.2] Về con chung tên: Hà Trần Thanh T, sinh ngày 20/7/2008 và Hà Trần Thanh L, sinh ngày 28/11/2013 hiện 02 con đang sống chung với bà T, theo lời trình bày của bà T thống nhất theo nguyện vọng của cháu Thanh T và cháu Thanh L sống với ai người đó nuôi dưỡng, mặt khác theo nguyện vọng của cháu Thanh T và cháu Thanh L muốn được sống với bà T, từ đó nghĩ nên giao bà T được quyền tiếp tục nuôi dưỡng cháu Hà Trần Thanh T và cháu Hà Trần Thanh L sau khi ly hôn là phù hợp với quy định tại Điều 81 Luật hôn nhân gia đình. Ông Hà Văn T có quyền thăm nom chăm sóc con chung, không ai được ngăn cản.
[2.3] Về cấp dưỡng nuôi con: bà Trần Thị Minh T chưa có yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[2.4] Về tài sản chung, về nợ chung: Các đương sự chưa yêu cầu, nên không xem xét.
[2.5] Về án phí: bà Trần Thị Minh T có nghĩa vụ chịu án phí hôn nhân sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào các Điều 19, 51, 53, 54, 56, 58, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân gia đình;
Các Điều 28, 35, 39, 147, 227, 228, 238, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;
Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận toàn bộ đơn khởi kiện của bà Trần Thị Minh T.
- Về quan hệ hôn nhân: Cho bà Trần Thị Minh T và ông Hà Văn T được ly hôn.
- Về con chung: Bà Trần Thị Minh T được tiếp tục nuôi dưỡng cháu Hà Trần Thanh T, sinh ngày 20/7/2008 và cháu Hà Trần Thanh L, sinh ngày 28/11/2013.
Ông Hà Văn T được quyền thăm và chăm sóc con chung không ai được ngăn cản.
- Về cấp dưỡng nuôi con: Các đương sự chưa yêu cầu nên không xem xét.
- Về tài sản chung, về nợ chung: Các đương sự chưa yêu cầu, nên không xem xét.
- Về án phí: Bà Trần Thị Minh T phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền số AA/2020/0010451, ngày 21/6/2022 do Chi cục thi hành án dân sự huyện C thu, bà Trần Thị Minh T đã nộp đủ tiền án phí, ông Hà Văn T không phải nộp án phí.
2. Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.
“Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự”.
Bản án 43/2022/HNGĐ-ST về tranh chấp ly hôn và tranh chấp quyền nuôi con
Số hiệu: | 43/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Càng Long - Trà Vinh |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 20/09/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về