TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG AN
BẢN ÁN 97/2021/HNGĐ-ST NGÀY 23/04/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON
Ngày 23 tháng 4 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 266/2021/TLST-HNGĐ ngày 17 tháng 3 năm 2021 về việc: Tranh chấp ly hôn và nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:77/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 05 tháng 4 năm 2021 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Trần Thị Thu N, sinh năm 1982 Địa chỉ: Ấp C xã T, huyện Đ, tỉnh L.
2. Bị đơn: Anh La Phước L, sinh năm 1987 Địa chỉ: Ấp C xã T, huyện Đ, tỉnh L. (Chị N có mặt, anh L xin vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện ly hôn ngày 15 tháng 3 năm 2021 và những lời khai tiếp theo chị Trần Thị Thu N trình bày: Chị và anh L có tìm hiểu nhau thời gian 02 tháng, sau đó chị và anh L chung sống với nhau vào năm 2015, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện Đ, tỉnh L. Cuộc sống vợ chồng hạnh phúc được thời gian đến tháng 8 năm 2019 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn; nguyên nhân là do cuộc sống không phù hợp, thường xuyên cãi nhau, nên chị và anh L xa nhau từ tháng 01 năm 2021 cho đến nay. Nay nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn nên chị xin được ly hôn với anh L.
Về con chung: Chị và anh L chung sống được 02 con chung tên La Trần Phương Uyên, sinh ngày 21 tháng 11 năm 2017 và La Trần Ngọc Mai sinh ngày 19 tháng 8 năm 2019 (chị đang nuôi con), khi ly hôn chị xin tiếp tục nuôi con. Chị không yêu cầu anh L cấp dưỡng.
Về tài sản chung: Chị và anh L không có, nên không yêu cầu giải quyết. Về nợ chung: Không có.
Tại lời trình bày của bị đơn anh La Phước L: Anh xác định điều kiện kết hôn là đúng theo lời trình bày của chị N. Anh và chị N chung sống đến tháng 5 năm 2020 thì phát sinh mâu thuẩn, nguyên nhân là do cuộc sống không phù hợp và mâu thuẩn về kinh tế, nên anh và chị N ly thân từ tháng 01 năm 2021 cho đến nay.
Nay chị N xin ly hôn, anh đồng ý.
Về con chung: Anh và chị N chung sống sinh được 02 con chung tên La Trần Phương U, sinh ngày 21 tháng 11 năm 2017 và La Trần Ngọc M sinh ngày 19 tháng 8 năm 2019 (chị N đang nuôi con), khi ly hôn anh đồng ý để con cho chị N tiếp tục nuôi, anh không cấp dưỡng.
Về tài sản chung; không có. Về nợ chung: Không có.
Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án tiến hành kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và anh L đề nghị xin vắng mặt công khai chứng cứ, hòa giải và xin xét xử vắng mặt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên Tòa, căn cứ các kết quả xét hỏi tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về tố tụng: Chị Trần Thị Thu N khởi kiện yêu cầu được ly hôn với anh La Phước L, anh L có địa chỉ tại Ấp C xã T, huyện Đ, tỉnh L, được Công an xã Tân Mỹ xác nhận và có mặt tại địa phương nên Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28 điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Bị đơn anh La Phước L có đề nghị xét xử vắng mặt, nên căn cứ vào khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh La Phước L.
[2]. Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Thị Thu N và anh La Phước L có tìm hiểu nhau thời gian 02 tháng, sau đó chị N và anh L chung sống với nhau vào năm 2015, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Tân Mỹ, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An. Nên hôn nhân giữa chị N và anh L là hôn nhân hợp pháp theo quy định tại Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
[3]. Trong quá trình chung sống, chị N và anh L đều cho rằng do cuộc sống không phù hợp, thường xuyên cãi nhau, nên chị N và anh L xa nhau từ tháng 01 năm 2021 cho đến nay.
Thấy rằng từ khi chị N và anh L ly thân từ tháng 01 năm 2021 cho đến nay, mâu thuẫn giữa chị N và anh L cũng không được gia đình hai bên và chính quyền địa phương giải quyết. Tại phiên tòa hôm nay chị N cương quyết ly hôn. Đối với anh L vắng mặt, nhưng tại bản tự khai anh L cho rằng do cuộc sống không phù hợp và mâu thuẩn về kinh tế, anh đồng ý ly hôn. Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử thấy rằng đời sống chung vợ chồng của chị N và anh L không thể tiếp tục, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, xét yêu cầu ly hôn của chị N đối với anh L là có căn cứ, phù hợp với Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
[4]. Về con chung: Chị N và anh L chung sống có 02 con chung tên La Trần Phương U, sinh ngày 21 tháng 11 năm 2017 và La Trần Ngọc M sinh ngày 19 tháng 8 năm 2019 (chị N đang nuôi con). Tại phiên tòa hôm nay chị N xin được nuôi con. Đối với anh L vắng mặt, nhưng tại bản tự khai anh L đồng ý để con cho chị N tiếp tục nuôi. Thấy rằng từ khi chị N và anh L ly thân với nhau, chị N là người trực tiếp nuôi con đồng thời anh L đồng ý để con cho chị N tiếp tục nuôi. Do đó để đảm bảo sự phát triển bình thường của cháu U, cháu M, cần tiếp tục giao hai cháu cho chị N tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp với điều 81 Luật hôn nhân và gia đình.
Tại phiên tòa hôm nay chị N không yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi con, nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[5]. Về tài sản chung: Chị N anh L khai không có. Do đó Hội đồng xét xử không xem xét.
[6]. Về nợ chung: Chị N và anh L thống nhất khai không có nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[7]. Về án phí: Chị Trần Thị Thu N phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào các Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 227 khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ vào các Điều 9 và Điều 56 Điều 81 Điều 82 Điều 83 Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;
Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Trần Thị Thu N đối với anh La Phước L về việc “Ly hôn”.
Chị Trần Thị Thu N được ly hôn với anh La Phước L.
2. Về con chung; Chị N được tiếp tục nuôi con tên La Trần Phương Uyên, sinh ngày 21 tháng 11 năm 2017 và La Trần Ngọc Mai sinh ngày 19 tháng 8 năm 2019 (chị N đang nuôi con) anh L không phải cấp dưỡng nuôi con, vì chị N không yêu cầu.
Bên không nuôi con được quyền tới lui, thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được quyền ngăn cản. Cả hai bên đều có quyền và nghĩa vụ đối với con chung. Khi cần thiết các bên có thể thay đổi việc nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con.
3. Về án phí: Chị N phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm sung công quỹ Nhà nước nhưng được khấu trừ 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai thu số 0007719 ngày 16/3/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đức Hòa sang án phí để thi hành. Như vậy chị N không phải nộp tiếp.
Án xử sơ thẩm và tuyên án công khai, nguyên đơn có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết công khai.
Bản án về tranh chấp ly hôn và nuôi con số 97/2021/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 97/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Đức Hòa - Long An |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 23/04/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về