Bản án về tranh chấp ly hôn và nuôi con số 94/2021/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CẨM THUỶ, TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 94/2021/HNGĐ-ST NGÀY 29/07/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON

Ngày 29 tháng 7 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Thanh Hoá, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 58/2021/TLST-HNGĐ ngày 07 tháng 5 năm 2021 về tranh chấp Ly hôn và nuôi con theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 21/2021/QĐXX-ST ngày 18 tháng 06 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 17/2021/QĐST-HNGĐ ngày 06/7/2021, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Bùi Công G sinh năm 1983.

Trú tại: Thôn C, xã Cẩm Long, huyện C, tỉnh Thanh Hóa. Có mặt.

2. Bị đơn: Chị Bùi Thị L sinh năm 1987 Trú tại: Thôn C, xã Cẩm Long, huyện C, tỉnh Thanh Hoá.

Vắng mặt theo quyết định tuyên bố mất tích số 01/2021/QĐDS-ST, ngày 26/3/2021 của Tòa án nhân dân huyện C.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 06/5/2021 và bản tự khai cũng Nhtại phiên tòa hôm nay nguyên đơn là anh Bùi Công G trình bày: Anh và chị L tự nguyện chung sống với nhau vào năm 2004, không có đăng ký kết hôn do không hiểu biết rõ về pháp luật. Quá trình chung sống với nhau hòa thuận, hạnh phúc. Đến năm 2019, không hiểu lý do vì sao, anh và chị không có mâu thuẫn gì, chị L tự ý bỏ nhà đi. Từ đó đến nay, chị L không về nhà lần nào nữa. Giữa anh và chị không có liên lạc gì với nhau.

Anh không biết chị L làm gì, ở đâu. Gia đình chị L cũng không biết chị ở đâu. Tháng 10/2020 anh làm đơn đề nghị Tòa án nhân dân huyện C giải quyết tuyên bố chị L mất tích. Tại QĐ số 01/2021/QDDS-ST ngày 26/3/2021 đã tuyên bố chị L mất tích. Nay xét thấy chị L bỏ nhà đi thời gian đã lâu, tình cảm vợ chồng không còn, chị L đã bị Tòa án tuyên bố mất tích nên anh đề nghị xin được ly hôn chị L.

Về con chung: Vợ chồng có hai con chung là Bùi Thị K – Sinh ngày 10/11/2004 và Bùi Tố Nh – Sinh ngày 29/6/2006. Hiện nay các con đang ở với anh Gi. Nay ly hôn anh có nguyện vọng được nuôi cả 02 con, đề nghị Tòa án xem xét.

Về tài sản: Anh Gi không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn chị Bùi Thị L: Tòa án nhân dân huyện C đã ra quyết định tuyên bố mất tích số 01/2021/QDDS-ST ngày 26/3/2021.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện C phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã thực hiện đầy đủ các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 điều 9, khoản 1 điều 14, điều 15, khoản 2 điều 53, điều 81, điều 82 và điều 83 – Luật Hôn nhân và gia đình. Khoản 4 điều 147 – BLTTDS. Điểm a khoản 1 điều 24, điểm a khoản 5 điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về án phí, lệ phí Toà án.

Về hôn nhân: Không công nhận anh Bùi Công G và chị Bùi Thị L là vợ chồng. Về con chung: Giao cả 02 cháu Bùi Thị K – Sinh ngày 10/11/2004 và cháu Bùi Tố Nh – Sinh ngày 29/6/2006 cho anh Gi trực tiếp nuôi dưỡng đến khi con đủ tuổi thành niên.

Về tài sản: Anh Gi không yêu cầu giải quyết, nên không xem xét.

Về án phí: Anh Gi phải chịu án phí DSST theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên toà. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền: Nguyên đơn anh Bùi Công G làm đơn xin ly hôn đối với chị Bùi Thị L, trú tại thôn C, xã Cẩm Long, huyện C, tỉnh Thanh Hoá. Do đó, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện C, quy định tại điểm a khoản 1 điều 35, điểm a khoản 1 điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về quan hệ pháp luật: Đây là vụ án tranh chấp về ly hôn, nuôi con được quy định tại khoản 1 điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[3] Về thủ tục xét xử vắng mặt: Ngày 26/3/2021, Tòa án nhân dân huyện C đã ra quyết định số 01/2021/QĐDS-ST tuyên bố chị L mất tích. Quá trình thụ lý giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành niêm yết các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật. Ngày 06/7/2021, Tòa án nhân dân huyện C mở phiên tòa xét xử vụ án, chị L vắng mặt lần thứ nhất. Do đó, Hội đồng xét xử hoãn phiên tòa. Tòa án tiến hành niêm yết Quyết định hoãn phiên tòa theo quy định. Nay chị L vẫn vắng mặt, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt chị L theo quy định tại điểm b khoản 2 điều 227 – Bộ luật tố tụng dân sự.

[4] Về yêu cầu của nguyên đơn: Về hôn nhân anh Gi và chị L tự nguyện chung sống với nhau năm 2004 nhưng không có đăng ký kết hôn. Đến năm 2009, chị L tự ý bỏ nhà đi. Từ đó đến nay anh và chị không còn liên lạc với nhau nữa. Anh không biết chị ở đâu và làm gì, thời gian chị Loạn bỏ nhà đi đã lâu nên anh làm đơn đề nghị tuyên bố chị mất tích. Ngày 26/3/2021, Tòa án nhân dân huyện C đã ra quyết định số 01/2021/QĐDS-ST tuyên bố chị L mất tích. Nay để đảm bảo quyền lợi của bản thân, anh Gi làm đơn xin ly hôn chị L. Xét thấy tình cảm vợ chồng đã tan vỡ, mục đích hôn nhân không đạt được, nguyện vọng xin ly hôn của anh Gi là chính đáng. Căn cứ điểm b mục 3 Nghị quyết số 35/2000/NQ-QH10 ngày 09/06/2000 của Quốc Hội về việc thi hành Luật hôn nhân và gia đình năm 2000. Hôn nhân giữa anh Bùi Công G và chị Bùi Thị L là vi phạm luật Hôn nhân và gia đình về thủ tục đăng ký kết hôn. Căn cứ theo quy định tại khoản 1 điều 9, khoản 2 điều 53 - Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, không công nhận anh Bùi Công G và chị Bùi Thị L là vợ chồng.

Về con chung: Anh Gi và chị L có hai con chung là Bùi Thị K – Sinh ngày 10/11/2004 và Bùi Tố Nh – Sinh ngày 29/6/2006. Anh Gi có nguyện vọng được nuôi cả 02 con. Xét nguyện vọng nuôi con của anh Gi là chính đáng, hiện nay các con đang ở với anh Gi, chị L đã bị tuyên bố mất tích. Do đó để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt cho các cháu, nên giao cả 02 cháu K và Nh cho anh Gi trực tiếp nuôi dưỡng đến khi các cháu đủ tuổi thành niên là phù hợp. Còn trường hợp khi chị L trở về có yêu cầu hủy bỏ quyết định tuyên bố mất tích và có yêu cầu thay đổi nuôi con thì Tòa án sẽ xem xét bằng một vụ án khác theo quy định của pháp luật.

Về tài sản: Anh Gi không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

[5] Về án phí: Anh Gi phải chịu án phí DSST theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 điều 9, khoản 1 điều 14, điều 15, khoản 2 điều 53, điều 81, 82 và 83 - Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Khoản 2 điều 68 – Bộ luật dân sự.

Khoản 4 điều 147, điểm b khoản 2 điều 227 - Bộ luật tố tụng dân sự. Điểm a khoản 1 Điều 24, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14, ngày 30/12/2016 của UBTVQH qui định về án phí, lệ phí Tòa án. Xử:

Về hôn nhân: Không công nhận anh Bùi Công G và Bùi Thị L là vợ chồng.

Về con chung: Giao cả 02 cháu cháu Bùi Tố Nh – Sinh ngày 29/6/2006 và cháu Bùi Thị K – Sinh ngày 10/11/2004 cho anh Gi trực tiếp nuôi dưỡng đến khi các cháu đủ tuổi thành niên.

Về tài sản: Anh Gi không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về án phí: Anh Gi phải chịu 300.000đ án phí DSST, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000đ theo biên lai thu số AA/2021/0010235 ngày 06/5/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện C. Anh Gi đã nộp đủ án phí DSST.

Anh Gi có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Chị L có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án đ- ược niêm yết

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

141
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn và nuôi con số 94/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:94/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cẩm Thủy - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;