Bản án 70/2022/HNGĐ-ST về tranh chấp ly hôn và nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N, TỈNH NINH THUẬN

BẢN ÁN 70/2022/HNGĐ-ST NGÀY 31/08/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON

Ngày 31 tháng 8 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện N xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 205/2022/TLST - HNGĐ ngày 03 tháng 6 năm 2022 về việc “Ly hôn và nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 65/2022/QĐST-HNGĐ ngày 09/8/2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 57/2022/QĐST-HNGĐ, ngày 22/8/2022 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Trần Thị Ngọc H, sinh năm 1993 (có mặt).

Bị đơn: Ông Nguyễn Hữu H1, sinh năm 1992 (vắng mặt).

Cùng nơi cư trú: Khu phố x, thị trấn P, huyện N, tỉnh Ninh Thuận.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Trong quá trình tham gia tố tụng và tại phiên tòa hôm nay nguyên đơn bà Trần Thị Ngọc H trình bày:

Về hôn nhân: Bà với ông Nguyễn Hữu H1 tự nguyện tìm hiểu và kết hôn với nhau vào năm 2015, có đến Ủy ban nhân dân thị trấn P, huyện N làm thủ tục đăng ký kết hôn vào năm 2015.

Qúa trình chung sống thời gian đầu hạnh phúc, nhưng đến 2020 thì xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân là do giữa bà với ông H1 hay cãi nhau về vấn đề tiền bạc, ông H1 còn có hành vi quan hệ với người phụ nữ khác, bà đã nhiều lần phát hiện nhưng ông H1 vẫn không nghe mà vẫn có mối quan hệ vợ người phụ nữ khác, khi bà nói thì giữa bà với ông H1 xảy cãi nhau, ông H1 tát bà 2-3 tát tai, dẫn đến tình cảm giữa bà với ông H1 ngày càng lạnh nhạt. Hiện bà với ông Nguyễn Hữu H1 đã sống ly thân với nhau từ năm 2020 cho đến nay, không quan tâm đến nhau.

Nay bà thấy không còn tình cảm với ông H1 nên yêu cầu được ly hôn với ông Nguyễn Hữu H1.

Bà làm thợ may tại nhà, thu nhập bình quân một ngày khoảng 200.000đ.

Về con chung: Bà với ông Nguyễn Hữu H1 sống với nhau có 01 con chung tên Nguyễn Trần Khôi N, sinh ngày 18-12-2019, hiện con chung đang sống với bà. Nếu ly hôn bà yêu cầu được nuôi con chung, không yêu cầu cấp dưỡng.

Về tài sản và nợ chung: Không có, không yêu cầu giải quyết.

* Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay, Bị đơn ông Nguyễn Hữu H1 vắng mặt không có lý do dù đã được Tòa án niêm yết hợp lệ các văn bản tố tụng:

* Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện N phát biểu ý kiến: Về thủ tục tố tụng: Thống nhất về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Thư ký và Hội đồng xét xử (Hội đồng xét xử được viết tắt là HĐXX). Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án đến trước khi HĐXX nghị án, đều đảm bảo đúng theo quy định tại các Điều 70, 71, 72 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Đối với bị đơn, Tòa án đã tống đạt, niêm yết hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng bị đơn vắng mặt không có lý do. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt bị đơn.

Về nội dung vụ án: Áp dụng khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự. Các điều 51, 56, 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và Gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016.

Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Trần Thị Ngọc H. Cho bà Trần Thị Ngọc H được ly hôn với ông Nguyễn Hữu H1, giao con chung tên Nguyễn Trần Khôi N, sinh ngày 18-12-2019 cho bà Trần Thị Ngọc H trực tiếp nuôi dưỡng, ông Nguyễn Hữu H1 không phải cấp dưỡng nuôi con chung. Buộc bà Trần Thị Ngọc H phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết: Căn cứ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn trong vụ án, HĐXX xác định: Quan hệ pháp luật là “Tranh chấp Ly hôn, nuôi con” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án; Bị đơn hiện đang cư trú tại khu phố 12, thị trấn P, huyện N, tỉnh Ninh Thuận. Căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện N.

[2]. Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ kiện và tại phiên tòa hôm nay ông Nguyễn Hữu H1 vắng mặt không có lý do, mặc dù Tòa án đã tống đạt, niêm yết hợp lệ các văn bản tố tụng. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án giải quyết vụ án vắng mặt ông Nguyễn Hữu H1.

[3]. Về nội dung vụ án:

[3.1]. Về quan hệ hôn nhân: Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, đã được thẩm tra tại phiên tòa xác định được bà Trần Thị Ngọc H và ông Nguyễn Hữu H1 kết hôn năm 2015, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn P, huyện N theo giấy chứng nhận kết hôn số 10 ngày 22-01-2015. Do đó, hôn nhân giữa bà Trần Thị Ngọc H và ông Nguyễn Hữu H1 là hôn nhân hợp pháp theo quy định của pháp luật.

Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay, bà Trần Thị Ngọc H vẫn giữ nguyên yêu cầu ly hôn ông Nguyễn Hữu H1, vì tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn gay gắt, trầm trọng, vợ chồng không còn quan tâm nhau, tình cảm vợ chồng đã hết. Vì vậy, bà yêu cầu được ly hôn với ông Nguyễn Hữu H1. Đối với bị đơn ông Nguyễn Hữu H1 dù đã được Tòa án tống đạt, niêm yết hợp lệ, các văn bản tố tụng nhiều lần theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự nhưng vẫn cố tình không đến. Bị đơn ông Nguyễn Hữu H1 vắng mặt xem như từ bỏ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, chứng tỏ yêu cầu khởi kiện ly hôn và lời khai của bà Trần Thị Ngọc H là có căn cứ. Hội đồng xét xử thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa bà Trần Thị Ngọc H và ông Nguyễn Hữu H1 đã thật sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, tình cảm vợ chồng đã hết, hiện đã sống ly thân, không quan tâm đến nhau, nên chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Trần Thị Ngọc H là phù hợp với quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3.2]. Về con chung: Bà Trần Thị Ngọc H trình bày bà với ông Nguyễn Hữu H1 sống với nhau có con chung tên Nguyễn Trần Khôi Nguyên, sinh ngày 18-12- 2019, hiện con chung đang sống với bà Trần Thị Ngọc H. Bà Trần Thị Ngọc H yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung. Xét về yêu cầu trực tiếp nuôi con của bà Trần Thị Ngọc H, Hội đồng xét xử xét thấy: Bà Trần Thị Ngọc H là người trực tiếp chăm sóc con chung từ nhỏ đến nay chu đáo, con chung phát triển bình thường, vì vậy nên giao con chung tên Nguyễn Trần Khôi N, sinh ngày 18-12- 2019 cho bà Trần Thị Ngọc H được trực tiếp nuôi dưỡng, ông Nguyễn Hữu H1 không cấp dưỡng nuôi con chung do bà Trần Thị Ngọc H không yêu cầu, là phù hợp với quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

[3.3]. Về tài sản, nợ chung: Không có, nên Hội đồng xét xử không xét đến.

[4]. Về án phí: Theo quy định tại Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, nguyên đơn bà Trần Thị Ngọc H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm.

[5]. Xét quan điểm của đại diện Viện kiểm sát huyện N tại phiên tòa hôm nay là có căn cứ và đúng pháp luật, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự; các Điều 51, 56, 57, 58, 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình 2014; Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện về việc “Ly hôn, nuôi con” của nguyên đơn bà Trần Thị Ngọc H. Bà Trần Thị Ngọc H được ly hôn với ông Nguyễn Hữu H1.

2. Về con chung: Giao con chung Nguyễn Trần Khôi N, sinh ngày 18-12- 2019 cho bà Trần Thị Ngọc H là người trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục. (Hiện con chung đang sống với bà Trần Thị Ngọc H).

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Bà Trần Thị Ngọc H phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí Tòa án bà Trần Thị Ngọc H đã nộp theo biên lai thu tiền số 0002555 ngày 03-6-2022 của Chi Cục Thi hành án Dân sự huyện N, tỉnh Ninh Thuận. Bà Trần Thị Ngọc H đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm, có mặt nguyên đơn, quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Đối với bị đơn vắng mặt, quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

63
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 70/2022/HNGĐ-ST về tranh chấp ly hôn và nuôi con

Số hiệu:70/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ninh Hải - Ninh Thuận
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 31/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;