TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH A, TỈNH HẬU GIANG
BẢN ÁN 66/2021/HNGĐ-ST NGÀY 24/06/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON
Ngày 24 tháng 6 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 115/2021/TL.ST-HNGĐ, ngày 22 tháng 4 năm 2021 về việc tranh chấp ly hôn và nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 86/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 21 tháng 5 năm 2021, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Ngô Kim N Địa chỉ: Kv3, phường BL, quận CR, thành phố Cần Thơ – Vắng mặt.
2. Bị đơn: Anh Nguyễn Đức B Địa chỉ: Ấp TTT, xã TPT, huyện CTA, tỉnh Hậu Giang – Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn xin ly hôn và quá trình tố tụng tại Tòa án, nguyên đơn chị Ngô Kim Ngọc trình bày:
Chị và anh Nguyễn Đức B tìm hiểu nhau khoảng bốn năm thì tự nguyện đi đến hôn nhân và đăng ký kết hôn vào năm 2014. Vợ chồng chung sống hạnh phúc khoảng ba năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh B thường nhậu say về chửi mắng chị. Vợ chồng thường xuyên cự cãi, đời sống vợ chồng không còn hạnh phúc. Chị và anh B đã sống ly thân được khoảng hai năm. Nay chị xác định không còn tình cảm với anh Biên nên yêu cầu được ly hôn với anh B.
Về con chung: Có 01 con chung là cháu Nguyễn Ngọc Ánh D (nữ) sinh ngày 01/8/2015, hiện tại cháu D đang sống cùng chị N. Sau khi ly hôn, chị Ngọc yêu cầu được nuôi con chung. Trong đơn khởi kiện ngày 22/4/2021 chị N yêu cầu anh B cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng 2.000.000đồng. Đến ngày 11/5/2021 chị N rút yêu cầu cấp dưỡng, không yêu cầu anh B cấp dưỡng nuôi con chung.
Về tài sản chung và nợ chung: Chị N khai Không có.
Quá trình tố tụng tại Tòa án, anh Nguyễn Đức B không đến Tòa án mặc dù đã được triệu tập hợp lệ nhiều lần, vì vậy Tòa án không lấy được lời khai của anh Biên.
Tại phiên tòa: Chị Ngô Kim N vắng mặt có yêu cầu xét xử vắng mặt, anh Nguyễn Đức B vắng mặt không rõ lý do, mặc dù đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai.
Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án: Trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng quy định pháp luật, đảm bảo đúng về thời hạn cũng như trình tự thủ tục. Nguyên đơn đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật và có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt, bị đơn đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa, vì vậy Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn là phù hợp quy định tại Điều 227 và 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về nội dung giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 53, Điều 56, Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình 2014: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Ngô Kim N đối với anh Nguyễn Đức B. Về con chung: Giao cháu Nguyễn Ngọc Ánh D (nữ) sinh ngày 01/8/2015 cho chị N tiếp tục nuôi dưỡng đến khi thành niên. Chị N không yêu cầu anh B cấp dưỡng nuôi con chung nên anh B chưa phải cấp dưỡng nuôi con chung. Về tài sản chung: Không xem xét, giải quyết. Về nợ chung: Không có. Về án phí: Đương sự phải chịu theo quy định pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Chị Ngô Kim N và anh Nguyễn Đức B do phát sinh mâu thuẫn trong đời sống hôn nhân và gia đình mà không thể hàn gắn tình cảm được nên chị N yêu cầu Tòa án giải quyết được ly hôn với anh B, nên theo quy định tại Điều 28, Điều 35, Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự xác định quan hệ tranh chấp giữa các đương sự là vụ án ly hôn, nuôi con thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang.
[2] Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa, nguyên đơn là chị Ngô Kim N vắng mặt có yêu cầu xét xử vắng mặt, bị đơn là anh Nguyễn Đức B vắng mặt không rõ lý do dù đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ Điều 227 và 228 của Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt đối với chị N và anh B.
[3] Về nội dung giải quyết vụ án:
[3.1] Xét yêu cầu ly hôn của nguyên đơn, Hội đồng xét xử xét thấy: Giữa chị N và anh B tự nguyện tiến tới hôn nhân và có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật. Quá trình chung sống giữa chị N và anh B phát sinh mâu thuẫn. Chị N cho rằng nguyên nhân mâu thuẫn là do anh B thường xuyên nhậu say về chửi mắng chị. Chị và anh B đã ly thân được hai năm. Anh B đã được Tòa án thông báo về việc chị Nc yêu cầu ly hôn và nuôi con và đã được triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt cho thấy anh B không trân trọng mối quan hệ hôn nhân với chị N và không có thiện chí hàn gắn. Tại phiên tòa, anh B tiếp tục vắng mặt dù đã được triệu tập hợp lệ hai lần. Xét thấy mâu thuẫn giữa chị N và anh B đã đến mức trầm trọng, cuộc sống chung không còn hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, Hội đồng xét xử có cơ sở chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị N đối với anh B.
[3.2] Về quyền nuôi con chung và nghĩa vụ cấp dưỡng: Chị N khai có một con chung là cháu Nguyễn Ngọc Ánh D (nữ) sinh ngày 01/8/2015, cháu D hiện đang sống cùng chị N, sau khi ly hôn, chị N yêu cầu được nuôi con chung. Anh B vắng mặt, không thể hiện yêu cầu về việc nuôi con chung. Vì vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở giao con chung cho chị N nuôi dưỡng. Chị N không yêu cầu anh B cấp dưỡng nuôi con chung nên anh B chưa phải cấp dưỡng nuôi con chung. Anh B có quyền và nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung không ai được quyền cản trở.
[3.3] Về tài sản chung, nợ chung: Chị N khai không có nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét, giải quyết. Nếu sau này có phát sinh tranh chấp sẽ giải quyết thành vụ án khác theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
[4] Về án phí: Chị Ngô Kim N phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm là 300.000đồng.
[5]. Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành A có căn cứ, phù hợp pháp luật nên được chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ: Khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147; Điều 271, Điều 273, Điều 227, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội;
Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Ngô Kim N.
1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận cho chị Ngô Kim N được ly hôn với anh Nguyễn Đức B. Giấy chứng nhận kết hôn số 110 ngày 23 tháng 10 năm 2014 của Ủy ban nhân dân xã Tân Phú Thạnh, huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang cấp cho chị Ngô Kim N và anh Nguyễn Đức B không còn giá trị kể từ ngày 24 tháng 6 năm 2021.
2. Về con chung: Giao cháu Nguyễn Ngọc Ánh D (nữ) sinh ngày 01/8/2015 cho chị Ngô Kim N trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi cháu D đủ 18 (mười tám) tuổi. Chị Ngô Kim N không yêu cầu anh Nguyễn Đức B cấp dưỡng nuôi con chung. Anh Nguyễn Đức B có quyền và nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung không ai được quyền cản trở.
3. Về tài sản chung, nợ chung: Không xem xét giải quyết. Nếu sau này phát sinh tranh chấp sẽ giải quyết thành vụ án khác theo thủ tục tố tụng dân sự.
4. Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Chị Ngô Kim N phải chịu 300.000đồng (ba trăm nghìn đồng). Chuyển 300.000đồng (ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí chị N đã nộp theo biên lai số 0008867 ngày 22 tháng 4 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Thành A thành tiền án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm (chị N đã nộp xong án phí).
5. Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.
Bản án về tranh chấp ly hôn và nuôi con số 66/2021/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 66/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành A - Hậu Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 24/06/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về