TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀM TÂN, TỈNH BÌNH THUẬN
BẢN ÁN 30/2023/HNGĐ-ST NGÀY 30/08/2023 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON
Ngày 30 tháng 8 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hàm Tân, tỉnh Bình Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 64/2023/TLST- HNGĐ ngày 10 tháng 5 năm 2023, về việc: “Tranh chấp ly hôn và nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 32/2023/QĐ-ST ngày 19 tháng 7 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Hàm Tân và Quyết định hoãn phiên tòa số 19/2023/QĐ-HNGĐ ngày 09 tháng 8 năm 2023, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Vũ Thị Mai Ch, sinh năm: 1985 (Vắng mặt) Địa chỉ: Thôn 11, xã Nam D, huyện Cư J, tỉnh Đắk Nông.
- Bị đơn: Ông Trịnh Kim Th , sinh năm: 1991 (Vắng mặt) Địa chỉ: Thôn 2, xã Tân Ph, huyện HT, Bình Thuận.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Tại đơn khởi kiện và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là bà Vũ Thị Mai Ch trình bày:
- Về hôn nhân: Giữa bà và ông Th tự nguyện tìm hiểu và đăng ký kết hôn tại UBND xã Tân Ph, huyện HT vào ngày 27/9/2016. Sau khi kết hôn thì vợ chồng chung sống tại thành phố Hồ Chí Minh. Trong thời gian đầu, vợ chồng chung sống hạnh phúc và ông Th biết chăm chỉ làm ăn nhưng càng về sau thì tính nết ông Th ngày càng thay đổi, ham mê cờ bạc gây ra nợ nần; Vì thương chồng con nên bà Ch đã cố gắng nhẫn nhịn để hàn gắn hạnh phúc gia đình, nhiều lần gom góp trả nợ cho ông Th đến mức mà trong gia đình có tài sản nào là phải bán hết trả nợ, thậm chí xe ô tô để làm ăn sinh sống thì ông Th cũng bán để trả nợ. Do đó, mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng nên ông Th trở về Tân Ph sinh sống và vợ chồng đã sống ly thân khoảng 02 năm nay, ông Th không quan tâm gì đến vợ con nữa. Nay, bà Ch nhận thấy mâu thuẫn ngày càng trầm trọng đến mức không thể hàn gắn được nên bà Ch đề nghị Tòa án giải quyết cho bà Ch được ly hôn với ông Trịnh Kim Th.
- Về con chung: Trong quá trình chung sống, vợ chồng bà Ch và ông Th có 02 con chung là cháu Trịnh Vũ An Nh, sinh ngày 22/9/2017 và cháu Trịnh Vũ Đan Th , sinh ngày 27/7/2019. Hiện các cháu đang sống chung với bà Ch tại thành phố Hồ Chí Minh. Khi ly hôn, bà Ch có nguyện vọng nuôi dưỡng 02 con chung, không yêu cầu ông Th phải cấp dưỡng nuôi con.
- Về tài sản chung, nợ chung: Vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
- Về án phí: Bà Vũ Thị Mai Ch tự nguyện chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định pháp luật.
* Bị đơn là ông Trịnh Kim Th đã được triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vắng mặt không có lý do, không trình bày ý kiến và cũng không tham gia phiên tòa.
Đại diện VKSND huyện Hàm Tân tham gia phiên tòa phát biểu:
Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình thu thập chứng cứ giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa Hội đồng xét xử, những người tiến hành tố tụng đã tuân thủ đúng và đầy đủ trình tự thủ tục tố tụng. Đối với đương sự thì nguyên đơn có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa; Bị đơn là ông Trịnh Kim Th đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt. Do đó, Tòa án tiếp tục xét xử vụ án là đúng quy định pháp luật.
Về nội dung: Căn cứ vào các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và tại phiên tòa, thấy rằng giữa bà Ch và ông Th tự nguyện đăng ký kết hôn tại UBND xã Tân Ph, huyện HT vào ngày 27/9/2016. Trong thời gian đầu, vợ chồng chung sống hạnh phúc và ông Th biết chăm chỉ làm ăn nhưng càng về sau thì tính nết ông Th ngày càng thay đổi, ham mê cờ bạc gây ra nợ nần; Vì thương chồng con nên bà Ch đã cố gắng nhẫn nhịn để hàn gắn hạnh phúc gia đình nên đã nhiều lần gom góp trả nợ cho ông Th nhưng ông Th vẫn tính nào tật đó, không thay đổi. Do đó, mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng và vợ chồng đã sống ly thân khoảng 02 năm nay, ông Th không còn quan tâm gì đến vợ con nữa, tình cảm vợ chồng không còn. Do đó, yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có cơ sở, phù hợp theo quy định tại Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình nên đề nghị Hội đồng xét xử cần được chấp nhận.
Về con chung, đề nghị giao các cháu Trịnh Vũ An Nh và cháu Trịnh Vũ Đan Th cho bà Vũ Thị Mai Ch tiếp tục nuôi dưỡng cho đến khi đủ 18 tuổi và có khả năng lao động; Ông Th không phải cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung, nợ chung: Vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về án phí: Đương sự phải chịu án phí theo quy định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của đương sự, ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hàm Tân tham gia phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy;
[1] Về quan hệ pháp luật có tranh chấp và thẩm quyền giải quyết của tòa án: Hội đồng xét xử thấy rằng đây là tranh chấp ly hôn và nuôi con được quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Hàm Tân.
[2] Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa. Bị đơn đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ 2 mà vẫn vắng mặt không có lý do; Hơn nữa, trong suốt quá trình giải quyết vụ án, Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng bị đơn là ông Trịnh Kim Th không trình bày ý kiến và cũng không tham gia tố tụng nên xác định bị đơn đã từ bỏ các quyền tham gia tố tụng của mình. Do đó, tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt theo quy định tại Đi ều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[3] Về quan hệ hôn nhân: Theo lời trình bày của nguyên đơn cũng như các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, xác định giữa bà Ch và ông Th tự nguyện đăng ký kết hôn tại UBND xã Tân Ph, huyện HT vào ngày 27/9/2016 nên hôn nhân giữa bà Ch và ông Th là hôn nhân hợp pháp theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình.
Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, Hội đồng xét xử nhận thấy: Trong thời gian chung sống, giữa vợ chồng phát sinh mâu thuẫn trầm trọng mà nguyên nhân là do ông Th ham mê cờ bạc, không có trách nhiệm với vợ con và vợ chồng đã sống ly thân khoảng 02 năm nay. Lời trình bày của bà Ch là phù hợp với nội dung biên bản xác minh ngày 02/7/2023 tại địa phương nơi cư trú của ông Th. Do đó, bà Ch yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà Ch được ly hôn với ông Trịnh Kim Th là có cơ sở để xem xét, giải quyết. Mặt khác, trong suốt quá trình giải quyết vụ án, bị đơn là ông Trịnh Kim Th không trình bày ý kiến và cũng không tham gia tố tụng; Hành vi này của ông Th đã thể hiện ý chí không muốn hàn gắn hạnh phúc gia đình, phù hợp với lời khai của nguyên đơn về nguyên nhân làm phát sinh mâu thuẫn vợ chồng. Do đó, xét yêu cầu xin ly hôn của bà Ch và đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện HT là có căn cứ và phù hợp theo quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình nên cần được chấp nhận.
[4]. Xét yêu cầu nuôi con chung của nguyên đơn, Hội đồng xét xử nhận thấy: Tính đến ngày xét xử sơ thẩm thì cháu Trịnh Vũ An Nh, sinh ngày 22/9/2017 và cháu Trịnh Vũ Đan Th, sinh ngày 27/7/2019 là chưa đủ 07 tuổi và hiện đang sống chung với bà Ch nên cần thiết giao các cháu Trịnh Vũ An Nh và cháu Trịnh Vũ Đan Th cho bà Vũ Thị Mai Ch tiếp tục nuôi dưỡng là có căn cứ, phù hợp theo quy định tại Điều 82 của Luật Hôn nhân và gia đình. Mặt khác, trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên toà hôm nay, bị đơn là ông Th đều vắng mặt, không trình bày nguyện vọng nuôi con nên không có cơ sở để xem xét.
Về yêu cầu cấp dưỡng: Bà Vũ Thị Mai Ch không yêu cầu ông Trịnh Kim Th cấp dưỡng nuôi con. Đây là ý chí tự nguyện của nguyện đơn, phù hợp quy định pháp luật nên cần chấp nhận.
[5]. Về chia tài sản và nợ chung: Các đương sự tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[6]. Về án phí: Bà Vũ Thị Mai Ch phải chịu án phí theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 39, Điều 147, khoản 1, 3 Điều 228, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình; Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
-Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Vũ Thị Mai Ch.
Về hôn nhân: Bà Vũ Thị Mai Ch được ly hôn với ông Trịnh Kim Th.
Về con chung: Giao các cháu Trịnh Vũ An Nh và cháu Trịnh Vũ Đan Th cho bà Vũ Thị Mai Chtiếp tục nuôi dưỡng cho đến khi đủ 18 tuổi và có khả năng lao động; Ông Th không phải cấp dưỡng nuôi con.
Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Vì lợi ích của con, các bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và cấp dưỡng cho con.
Về tài sản chung: Đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.
2. Về án phí: Bà Vũ Thị Mai Ch chịu 300.000đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đồng theo biên lai thu tiền số 0010666 ngày 09 tháng 5 năm 2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện HT.
3. Án xử công khai, báo cho các đương sự biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.
Bản án 30/2023/HNGĐ-ST về tranh chấp ly hôn và nuôi con
Số hiệu: | 30/2023/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Hàm Tân - Bình Thuận |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 30/08/2023 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về