TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NHÀ BÈ, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 270/2021/HNGĐ-ST NGÀY 19/11/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON
Ngày 19 tháng 11 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Nhà Bè xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 573/2020/TLST-HNGĐ ngày 15 tháng 12 năm 2020 về “Tranh chấp ly hôn và nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 490/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 02 tháng 11 năm 2021, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Huyền Tr, sinh năm 1986.
Bị đơn: Ông Võ Văn Th, sinh năm 1979.
Cùng địa chỉ: Số 118 Bùi Văn Ba, Khu phố 2, phường T, Quận M, Thành phố H; Cùng tạm trú: Số 2266/14/31/14A Ấp 3, xã X, huyện B, Thành phố H.
Các đương sự đều có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện ngày 02/12/2020 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, nguyên đơn bà Nguyễn Thị Huyền Tr trình bày:
Bà Tr và ông Th tự nguyện sống chung, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Tân Thuận Đông, Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh theo giấy chứng nhận kết hôn số 152, quyển số 01/2012 ngày 01/10/2012.
Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do ông Th thiếu trách nhiệm với gia đình, ham mê cờ bạc, gây ra nợ nần phải bán nhà trả nợ, kinh tế gia đình khó khăn, vợ chồng thường xuyên cãi nhau, không có tiếng nói chung. Bà Tr cố gắng chịu đựng và nhiều lần khuyên can ông Th tu chí làm ăn cùng chăm lo cho gia đình nhưng không có kết quả mà mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng hơn, không khắc phục được nên bà Tr và ông Th đã sống ly thân từ năm 2020, mỗi người có cuộc sống riêng.
Bà Tr nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, không thể hàn gắn nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với ông Võ Văn Th để ổn định cuộc sống.
Về con chung: Vợ chồng có 01 (một) người con chung tên Võ Ngọc Phương Tr, sinh ngày 03/8/2013. Khi ly hôn bà Tr yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung. Về cấp dưỡng nuôi con: Bà Tr không yêu cầu ông Th cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung: Bà Tr không yêu cầu Tòa giải quyết.
Về nợ chung: Bà Tr xác định không có, không yêu cầu Tòa giải quyết.
Tại bản tự khai ngày 20/01/2021 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị đơn ông Võ Văn Th trình bày:
Ông Th xác nhận về thời gian kết hôn theo như bà Tr trình bày là đúng. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc được 08 năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do lỗi của ông Th, vì ham muốn có nhiều tiền nên đã vướn vào cờ bạc dẫn đến nợ nần, không lo cho gia đình và vợ con. Ông Th hứa sửa đổi và còn thương vợ nên không đồng ý ly hôn.
Về con chung: Vợ chồng có 01 (một) người con chung tên Võ Ngọc Phương Tr, sinh ngày 03/8/2013. Trường hợp Tòa án giải quyết cho ly hôn, ông Th yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung. Về cấp dưỡng nuôi con: Ông Th không yêu cầu bà Tr cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung: Ông Th không yêu cầu Tòa giải quyết.
Về nợ chung: Ông Th xác định không có, không yêu cầu Tòa giải quyết.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu về việc tuân theo pháp luật tố tụng và nội dung trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và những người tham gia tố tụng:
Qua kiểm sát giải quyết vụ án thì từ khi thụ lý đến thời điểm này thấy rằng Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã chấp hành đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về phiên tòa sơ thẩm. Tại phiên tòa hôm nay, các đương sự đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình và tuân thủ nội quy phiên tòa.
Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, căn cứ Điều 51, Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn cho ly hôn với ông Võ Văn Th; giao con chung Võ Ngọc Phương Tr, sinh ngày 03/8/2013 cho bà Tr trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng; Tài sản chung: Không yêu cầu giải quyết; Nợ chung: không có, không yêu cầu Tòa giải quyết.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được kiểm tra xem xét tại phiên toà, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Xét đơn khởi kiện của bà Nguyễn Thị Huyền Tr yêu cầu ly hôn với ông Võ Văn Th, là quan hệ pháp luật “Tranh chấp về ly hôn và nuôi con” thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Bị đơn ông Võ Văn Th hiện đang cư trú tại huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Nhà Bè theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
[2] Về yêu cầu của nguyên đơn, Hội đồng xét xử xét:
[2.1] Nguyên đơn bà Nguyễn Thị Huyền Tr yêu cầu ly hôn với ông Võ Văn Th, nguyên nhân do ông Th thiếu trách nhiệm với gia đình, ham mê cờ bạc gây ra nợ nần, vợ chồng luôn bất đồng quan điểm thường xuyên cãi nhau, mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng không khắc phục được, mỗi người có cuộc sống riêng, không ai quan tâm đến ai. Bị đơn ông Võ Văn Th xác nhận nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng là do ông ham mê cờ bạc nhưng ông hứa sẽ sửa đổi và còn thương vợ nên không đồng ý lý hôn.
[2.2] Qua kết quả xác minh tại Hội Liên hiệp Phụ nữ xã Phú Xuân, huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh: Trong thời gian sinh sống tại địa phương, vợ chồng bà Nguyễn Thị Huyền Tr và ông Võ Văn Th có mâu thuẫn hay cãi nhau, bà Tr đã dẫn con gái về quê sinh sống.
Như vậy, có cơ sở xác định mâu thuẫn vợ chồng giữa bà Tr và ông Th là có thật, đã có thời gian để khắc phục nhưng không có kết quả và khả năng hàn gắn không còn, đời sống hôn nhân đã đến mức trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó căn cứ Điều 51, Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà Nguyễn Thị Huyền Trđối với ông Võ Văn Th.
[3] Về con chung: Bà Tr và ông Th có 01 (một) người con chung tên Võ Ngọc Phương Tr, sinh ngày 03/8/2013.
Sau khi ly hôn, bà Tr và ông Th đều có yêu cầu được quyền trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ Trâm và không yêu cầu người không trực tiếp nuôi con phải cấp dưỡng nuôi con.
Hội đồng xét xử xét:
Về điều kiện nuôi con chung, cả bà Tr và ông Th đều đáp ứng được nhu cầu ăn học, sinh hoạt của con chung. Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết vụ án, qua ghi nhận ý kiến thì trẻ Trâm có nguyện vọng được ở với mẹ trong trường hợp ba mẹ của trẻ ly hôn. Do đó, để tạo điều kiện thuận lợi cho việc chăm sóc, dạy dỗ con chung và phù hợp với nguyện vọng trẻ nên giao con chung cho bà Tr trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng là phù hợp.
Ghi nhận bà Tr không yêu cầu ông Th cấp dưỡng nuôi con chung.
[4] Về tài sản chung: Bà Tr và ông Th không yêu cầu Tòa giải quyết.
[5] Về nợ chung: Bà Tr và ông Th xác định không có, không yêu cầu Tòa giải quyết.
[6] Án phí dân sự sơ thẩm: Bà Tr chịu án phí 300.000 đồng theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a, khoản 1 Điều 35, Điều 39, Điều 266, Điều 273, Điều 278 và Điều 280 Bộ Luật Tố tụng dân sự năm 2015;
Căn cứ vào các Điều 51, Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Căn cứ Luật Thi hành án dân sự. Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Huyền Tr.
- Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Huyền Tr được ly hôn với ông Võ Văn Th.
- Về con chung: Giao con chung Võ Ngọc Phương Tr, sinh ngày 03/8/2013 cho bà Tr trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục.
Ghi nhận bà Tr không yêu cầu ông Th cấp dưỡng nuôi con chung.
Việc giao nhận con chung do hai bên đương sự tự thi hành hoặc yêu cầu cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền thi hành.
Sau khi ly hôn, cha mẹ có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con mà không ai được cản trở. Trường hợp người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Toà án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.
Vì quyền lợi của con khi cần thiết, theo yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con.
- Về tài sản chung: Bà Tr và ông Th không yêu cầu Tòa giải quyết.
- Về nợ chung: Bà Tr và ông Th xác định không có, không yêu cầu giải quyết.
2. Án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng do bà Nguyễn Thị Huyền Tr nộp, được khấu trừ vào 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng tiền tạm ứng án phí mà bà Tr đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0073206 ngày 15/12/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh. Bà Tr đã nộp đủ án phí.
3. Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.
4. Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện yêu cầu thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự
Bản án về tranh chấp ly hôn và nuôi con số 270/2021/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 270/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Nhà Bè - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 19/11/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về