Bản án về tranh chấp ly hôn và nuôi con số 23/2024/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHƯ PĂH, TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 23/2024/HNGĐ-ST NGÀY 04/09/2024 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON

Ngày 04 tháng 9 năm 2024, tại Hội trường xét xử Toà án nhân dân huyện Chư Păh, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm công khai vụ án HNGĐ thụ lý số: 26/2024/TLST- HNGĐ ngày 01 tháng 04 năm 2024 về việc“Tranh chấp ly hôn và nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 26/2024/QĐXXST- HNGĐ ngày 18 tháng 7 năm 2024 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 26/2024/QĐST-HNGĐ ngày 14 tháng 8 năm 2024, giữa các đương sự:

-Nguyên đơn: Chị Giáp Thị T, sinh năm 1995 Địa chỉ: Thôn B, xã N, huyện C, tỉnh Gia Lai. Có mặt

-Bị đơn: Anh Nguyễn Thành T1, sinh năm 1995 Địa chỉ: Thôn D, xã N, huyện C, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày 28/3/2024, bản tự khai, tài liệu có tại hồ sơ và tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn chị Giáp Thị T trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Giáp Thị T và anh Nguyễn Thành T1 tự nguyện tìm hiểu, không ai ép buộc, có đăng ký kết hôn ngày 11/4/2017 tại Ủy ban nhân dân xã N, huyện C, tỉnh Gia Lai. Quá trình chung sống đến khoảng tháng 3/2023 vợ chồng chị phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân là anh T1 thường xuyên đi đánh bài, không quan tâm đến gia đình. Chị đã cố gắng trao đổi để giải quyết mâu thuẫn và gia đình hai bên có khuyên giải nhưng không có kết quả, mâu thuẫn giữa chị với anh T1 không giải quyết được, từ tháng 4/2023 đến nay chị với anh T1 sống ly thân, vợ chồng không còn quan hệ tình cảm, kinh tế với nhau. Nay chị xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, không thể hàn gắn được nữa nên chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Nguyễn Thành T1.

Về con chung: Chị T và anh T1 có 01 con chung là Nguyễn An D, sinh ngày 30/5/2017. Ly hôn, chị T có nguyện vọng được nuôi trực tiếp con chung.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị T không yêu cầu anh T1 phải cấp dưỡng tiền nuôi con.

Về tài sản chung và nghĩa vụ chung: Chị T không yêu cầu giải quyết. Ngoài ra, chị Giáp Thị T không có yêu cầu gì thêm.

Đối với bị đơn là anh Nguyễn Thành T1: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, nhưng anh T1 không đến Tòa án làm việc. Do đó, Tòa án không lấy được ý kiến của anh T1 đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và nguyên đơn là đảm bảo theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Đối với bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai, do đó Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt bị đơn là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về việc giải quyết vụ án: Căn cứ các Điều 56, 81, 82, 83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

- Về án phí: Áp dụng khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự. Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Chị Giáp Thị T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Chư Păh theo quy định khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tống tụng nhưng vẫn vắng mặt không có lý do, theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

[2] Về nội dung: Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thấy rằng:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Giáp Thị T và anh Nguyễn Thành T1 tự nguyện tìm hiểu và có đăng ký kết hôn ngày 11/4/2017, tại Ủy ban nhân dân xã N, huyện C, tỉnh Gia Lai. Nên hôn nhân giữa chị T và anh T1 là hợp pháp, làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa vợ chồng.

Trong quá trình chung sống, chị T cho rằng vợ chồng chị xảy ra nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân là anh T1 thường xuyên đi đánh bài, không quan tâm đến gia đình. Chị đã cố gắng trao đổi để giải quyết mâu thuẫn và gia đình hai bên có khuyên giải nhưng không có kết quả, mâu thuẫn giữa chị với anh T1 không giải quyết được, từ tháng 4/2023 đến nay chị với anh T1 sống ly thân, vợ chồng không còn quan hệ tình cảm, kinh tế với nhau.

Vì vậy chị làm đơn khởi kiện đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Nguyễn Thành T1.

Quá trình thụ lý giải quyết vụ án Tòa án đã tống đạt các văn bản tố tụng và quyết định đưa vụ án ra xét xử hợp lệ, nhưng anh T1 không lên Tòa án làm việc và không có ý kiến gửi cho Tòa án cho thấy anh T1 đã từ bỏ quyền lợi của mình, không muốn hàn gắn tình cảm với chị T và chính quyền địa phương cũng xác nhận từ năm 2023 anh T1 đã về nhà bố mẹ đẻ ở cho đến nay. Từ những cơ sở đó, Hội đồng xét xử xét thấy hôn nhân giữa chị T và anh T1 đã thật sự lâm vào tình trạng mâu thuẫn trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Do đó, yêu cầu xin ly hôn của chị T là có cơ sở chấp nhận, phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình, phù hợp với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chư Păh.

- Về con chung: Chị T và anh T1 có 01 con chung là Nguyễn An D, sinh ngày 30/5/2017. Ly hôn, chị T có nguyện vọng được nuôi trực tiếp con chung.

Tại bản tự khai của cháu Nguyễn An D trình bày: Nếu bố mẹ cháu ly hôn thì cháu có nguyên vọng được ở với mẹ.

Xét yêu cầu của chị T và nguyện vọng của cháu D thấy rằng: Hiện con chung chị T vẫn đang trực tiếp nuôi dưỡng, chị T vẫn đảm bảo cho sự phát triển bình thường về mọi mặt của con. Mặt khác, quá trình giải quyết vụ án anh T1 không lên Tòa án làm việc, không trình bày ý kiến của mình. Do đó, căn cứ vào Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử xét chấp nhận yêu cầu của chị T.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị T không yêu cầu anh T1 phải cấp dưỡng tiền nuôi con, nên không xem xét.

- Về tài sản chung và nghĩa vụ chung khác: Chị T không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không xem xét.

[3] Về án phí: Căn cứ vào Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 27 của Nghị quyết: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội thì chị T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên, Căn cứ:

QUYẾT ĐỊNH

- Các Điều 56, 57, 81, 82, 83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình. Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, khoản 1 Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Giáp Thị T được ly hôn với anh Nguyễn Thành T1.

- Về con chung: Giao cháu Nguyễn An D, sinh ngày 30/5/2017 cho chị Giáp Thị T trực tiếp chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng cho đến khi con thành niên có khả năng lao động hoặc đã thành niên nhưng không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.

Về cấp dưỡng nuôi con: Anh Nguyễn Thành T1 không phải cấp dưỡng tiền nuôi con cho chị Giáp Thị T.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con không ai được cản trở người đó thực hiện quyền này. Trong trường hợp người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một bên hoặc cả hai bên, các bên có quyền thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc việc cấp dưỡng nuôi con.

- Về án phí: Buộc chị Giáp Thị T phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm để nộp ngân sách Nhà nước, được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng chị T đã nộp tạm ứng án phí trước đây theo biên lai thu án phí, lệ phí Tòa án số: 0008203 ngày 01 tháng 4 năm 2024 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Chư Păh, tỉnh Gia Lai.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, nguyên đơn có quyền làm đơn kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai xét xử phúc thẩm.

Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày Tòa án niêm yết bản án.

“Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

25
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn và nuôi con số 23/2024/HNGĐ-ST

Số hiệu:23/2024/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chư Păh - Gia Lai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 04/09/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;