TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HT, TỈNH BÌNH THUẬN
BẢN ÁN 20/2023/HNGĐ-ST NGÀY 13/07/2023 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON
Ngày 13 tháng 7 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện HT, tỉnh B xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 08/2023/TLST- HNGĐ ngày 10 tháng 02 năm 2023, về việc: “Tranh chấp ly hôn và nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 19/2023/QĐXX- HNGĐ ngày 22 tháng 5 năm 2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 11/2023/QĐST- HNGĐ ngày 16 tháng 6 năm 2023, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Đinh Thị Th, sinh năm: 1995. Địa chỉ: Làng Kà B, xã Canh L, huyện Vân C, tỉnh Bình Định. (vắng mặt)
- Bị đơn: Anh Mai Văn H, sinh năm: 1994. Địa chỉ: Thôn 2, xã Tân Ph , huyện HT, tỉnh B. (có mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Tại đơn khởi kiện và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn, chị Đinh Thị Th trình bày:
- Về hôn nhân: Giữa chị và anh Mai Văn H tự nguyện chung sống và đăng ký kết hôn tại UBND xã Tân Ph ngày 08/4/2016. Trong quá trình chung sống, vợ chồng thường xuyên mâu thuẫn cải vã nhau do bất đồng quan điểm sống. Nguyên nhân là do anh H luôn dùng lời lẽ thô tục xúc phạm và đánh đập chị Th; Thậm chí xúc phạm cả cha mẹ của chị Th. Mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng, không thể hằn gắn hạnh phúc gia đình nên chị Th đã về nhà cha mẹ ruột ở và vợ chồng đã ly thân từ tháng 02/2022 cho đến nay. Nay, chị Th nhận thấy mâu thuẫn ngày càng trầm trọng đến mức không thể hàn gắn được nên chị Th đề nghị Tòa án giải quyết cho chị Th được ly hôn với anh Mai Văn H.
- Về con chung: Trong quá trình chung sống, vợ chồng chị Th và anh Hcó 01 con chung là cháu Mai Đinh Thành L, sinh ngày: 19/10/2016. Khi ly hôn, chị Th có nguyện vọng được nuôi con chung cho đến khi đủ 18 tuổi và có khả năng lao động; không yêu cầu anh Mai Văn H cấp dưỡng nuôi con. Tuy nhiên, tại phiên hoà giải ngày 29 tháng 3 năm 2023 và ngày 22 tháng 5 năm 2023, chị Th xác định nếu anh Mai Văn H kiên quyết nuôi con thì chị Th đồng ý giao con cho anh Htiếp tục nuôi dưỡng.
Về cấp dưỡng: Vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
-Về tài sản chung, nợ chung: Vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
- Về án phí: Chị Đinh Thị Th tự nguyện chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định pháp luật.
* Bị đơn, anh Mai Văn H trình bày: Anh Hthống nhất lời trình bày của nguyên đơn về quá trình chung sống và đăng ký kết hôn. Anh Hthừa nhận là vợ chồng đã có mâu thuẫn, cải vã dẫn đến việc sống ly thân. Đồng thời, anh Hcũng thừa nhận có xúc phạm cha vợ nhưng nguyên nhân là do cha vợ đòi đánh anh H nên anh H mới chửi lại cha vợ. Nay anh Hnhận thấy vẫn còn yêu thương vợ con nên không đồng ý ly hôn với Đinh Thị Th.
Trong mối quan hệ hôn nhân thì chính chị Th là người đã ngoại tình với người đàn ông khác chứ không phải anh H nên anh không có lỗi và không đồng ý ly hôn.
- Về con chung: Anh H có nguyện vọng tiếp tục nuôi con chung là cháu Mai Đinh Thành L, sinh ngày: 19/10/2016 cho đến khi đủ 18 tuổi và có khả năng lao động.
Về cấp dưỡng: Vợ chồng tự thoả thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
-Về tài sản chung, nợ chung: Vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
- Về án phí: Theo quy định pháp luật.
Đại diện VKSND huyện HT tham gia phiên tòa phát biểu:
Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình thu thập chứng cứ giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa Hội đồng xét xử, những người tiến hành tố tụng đã tuân thủ đúng và đầy đủ trình tự thủ tục tố tụng. Nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt nên đề nghị Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn theo quy định pháp luật.
Về nội dung: Căn cứ vào các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và tại phiên tòa, thấy rằng giữa chị và anh Mai Văn H tự nguyện chung sống và đăng ký kết hôn tại UBND xã Tân Ph ngày 08/4/2016. Trong quá trình chung sống, vợ chồng thì vợ chồng thường xuyên cải vã nhau do bất đồng quan điểm sống. Anh Hđã thừa nhận có dùng lời lẽ thô tục xúc phạm và đánh đập chị Th; Thậm chí xúc phạm cả cha mẹ của chị Th. Mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng, không thể hằn gắn hạnh phúc gia đình nên chị Th đã về nhà cha mẹ ruột ở và vợ chồng đã ly thân từ tháng 02/2022 cho đến nay. Do đó, yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có cơ sở, phù hợp theo quy định tại Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình nên đề nghị Hội đồng xét xử cần được chấp nhận.
Về con chung, đề nghị giao cháu Mai Đinh Thành L, sinh ngày:
19/10/2016 cho anh Mai Văn H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi đủ 18 tuổi và có khả năng lao động. Chị Th không phải cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung, nợ chung: Vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về án phí: Đương sự phải chịu án phí theo quy định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của đương sự, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện HT tham gia phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy;
[1] Về quan hệ pháp luật có tranh chấp và thẩm quyền giải quyết của tòa án: Hội đồng xét xử thấy rằng đây là tranh chấp ly hôn và nuôi con được quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự; thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện HT.
[2] Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa. Do đó, tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn theo quy định tại khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.
[3] Về quan hệ hôn nhân: Theo lời trình bày của các đương sự cũng như các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, xác định: Giữa chị Đinh Thị Th và anh Mai Văn H tự nguyện chung sống và đăng ký kết hôn tại UBND xã Tân Ph ngày 08/4/2016 là đúng quy định của pháp luật nên đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp.
[3.1] Theo lời trình bày của nguyên đơn thì trong quá trình chung sống, vợ chồng thường xuyên cải vã nhau do bất đồng quan điểm sống. Nguyên nhân là do anh Hluôn dùng lời lẽ thô tục xúc phạm và đánh đập chị Th; Thậm chí xúc phạm cả cha mẹ của chị Th. Mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng, không thể hằn gắn hạnh phúc gia đình nên chị đã về nhà cha mẹ ruột ở và vợ chồng đã ly thân từ tháng 02/2022 cho đến nay. Nay, chị Th nhận thấy mâu thuẫn ngày càng trầm trọng đến mức không thể hàn gắn được nên chị Th đề nghị Tòa án giải quyết cho chị Đinh Thị Th được ly hôn với anh Mai Văn H là phù hợp theo quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.
[3.2] Tại biên bản hòa giải ngày 29 tháng 3 năm 2023 và biên bản hòa giải ngày 22 tháng 5 năm 2023, cũng như tại phiên tòa: Anh H thống nhất với lời trình bày của nguyên đơn về quá trình chung sống và đăng ký kết hôn. Anh H thừa nhận là vợ chồng đã có mâu thuẫn, cải vã dẫn đến việc sống ly thân. Đồng thời, anh H cũng thừa nhận có xúc phạm cha vợ nhưng nguyên nhân là do cha vợ đòi đánh anh Hnên anh H mới chửi lại cha vợ. Nay anh Hnhận thấy vẫn còn yêu thương vợ con nên không đồng ý ly hôn với Đinh Thị Th.
Đối với lời khai của anh H cho rằng, chị Th là người đã ngoại tình với người đàn ông khác chứ không phải anh Hnên anh không có lỗi, đã xác định tình cảm vợ chồng không còn dành cho nhau nên yêu cầu ly hôn cần được chấp nhận.
[3.3] Xét lời trình bày của các đương sự, Hội đồng xét xử nhấn thấy: Căn cứ vào lời khai của các bên đương sự có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, đủ cơ sở xác định: Yêu cầu xin ly hôn của chị Th và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện HT là có căn cứ và phù hợp theo quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình nên cần được chấp nhận.
[4] Về con chung:
[4.1] Tại biên bản hòa giải ngày 29 tháng 3 năm 2023 và biên bản hòa giải ngày 22 tháng 5 năm 2023, chị Th đồng ý giao cháu Mai Đinh Thành L, sinh ngày: 19/10/2016 cho anh Mai Văn H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi đủ 18 tuổi và có khả năng lao động. Xét thấy, đây là ý chí tự nguyện của các bên đương sự phù hợp theo quy định pháp luật nên cần được chấp nhận.
[4.2] Về yêu cầu cấp dưỡng: Vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét. Tuy nhiên, tại phiên tòa anh Mai Văn H yêu cầu chị Th phải cấp dưỡng nuôi con 4.000.000đồng/tháng.
[4.3] Xét yêu cầu cấp dưỡng nuôi con của anh H tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy: Tại đơn khởi kiện và các phiên hòa giải, nguyên đơn đều thể hiện nguyện vọng nuôi con, không yêu cầu cấp dưỡng nhưng bị đơn không đồng ý nên nguyên đơn chấp nhận giao con chung cho bị đơn nuôi dưỡng, không cấp dưỡng nuôi con. Mặc khác, tại phiên tòa, anh H vẫn giữ nguyên quan điểm nuôi con và không đồng ý giao con cho chị Th nuôi dưỡng. Do đó, việc anh H thay đổi, bổ sung yêu cầu cấp dưỡng nuôi con tại phiên tòa là không có căn cứ để chấp nhận. Anh H có quyền khởi kiện để giải quyết yêu cầu cấp dưỡng nuôi con trong vụ án khác.
[5] Về tài sản chung, nợ chung: Vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[6] Về án phí: Chị Đinh Thị Th phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 39, Điều 147, khoản 3 Điều 200, khoản 1 Điều 228, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;
- Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình;
- Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
-Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Đinh Thị Th.
Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Đinh Thị Th và anh Mai Văn H.
Về con chung: Giao cháu Mai Đinh Thành L, sinh ngày: 19/10/2016 cho anh Mai Văn H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi đủ 18 tuổi và có khả năng lao động.
Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Vì lợi ích của con, các bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và cấp dưỡng cho con.
Về tài sản chung, nợ chung: Vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
2. Về án phí: Chị Đinh Thị Th phải chịu 300.000đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đồng theo biên lai thu tiền số 0010561 ngày 06 tháng 02 năm 2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện HT.
3. Án xử công khai, báo cho bị đơn biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Nguyên đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.
Bản án 20/2023/HNGĐ-ST về tranh chấp ly hôn và nuôi con
Số hiệu: | 20/2023/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Hàm Thuận Nam - Bình Thuận |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 13/07/2023 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về