Bản án về tranh chấp ly hôn và nuôi con số 19/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN U MINH THƯỢNG-TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 19/2021/HNGĐ-ST NGÀY 13/12/2021VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON

Ngày 13 tháng 12 năm 2021, tại Tòa án nhân dân huyện U Minh Thượng, tỉnh Kiên Giang xét xử công khai sơ thẩm vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 82/2021/TLST-HNGĐ, ngày 28 tháng 6 năm 2021 về việc “Tranh chấp ly hôn và nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 26/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 22 tháng 11 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 42/2021/QĐST-HNGĐ ngày 01 tháng 12 năm 2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Hà Thị L, sinh năm 1998.

Địa chỉ: Ấp MD A, xã MT, huyện UMT, tỉnh Kiên Giang; chỗ ở hiện nay: Ấp MC, xã MT, huyện UMT, tỉnh Kiên Giang. (có mặt) 2. Bị đơn: Anh Nguyễn Phương K, sinh năm 1993.

Địa chỉ: Ấp MD A, xã MT, huyện UMT, tỉnh Kiên Giang. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 24 tháng 02 năm 2021 và trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chị Hà Thị L trình bày và yêu cầu như sau:

- Về hôn nhân: Chị và anh Nguyễn Phương K tự nguyện đi đến hôn nhân, được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới vào năm 2016. Đến ngày 25/8/2016 chị và anh K đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã MT, huyện UMT, tỉnh Kiên Giang. Quá trình chung sống đến đầu năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do anh K không chí thú làm ăn, suốt ngày chỉ lo chơi bời, không quan tâm đến cuộc sống gia đình. Chị nhiều lần khuyên nhủ nhưng anh K không nghe mà còn xảy ra cãi vã, làm cho cuộc sống hôn nhân không có hạnh phúc. Từ tháng 01 năm 2020 chị và anh K sống ly thân cho đến nay, suốt thời gian qua chị về nhà mẹ ruột sống, không còn quan tâm đến cuộc sống riêng tư của nhau. Nay chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh K.

- Về con chung: Chị và anh K có 01 người con chung tên Nguyễn Phương A, sinh ngày 29/3/2017, con đang sống với chị L. Khi ly hôn chị L yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con, không yêu cầu anh K cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung và nợ chung: Chị và anh K không có tài sản chung và nợ chung.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã thông báo cho anh Nguyễn Phương K biết về yêu cầu khởi kiện của chị Hà Thị L và triệu tập anh K tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, tham gia phiên tòa xét xử nhưng anh K đều vắng mặt và không có ý kiến trình bày đối với yêu cầu khởi kiện của chị L.

Tại phiên tòa xét xử, chị L vẫn giữ nguyên yêu cầu ly hôn với anh K, chị L yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con, không yêu cầu anh K cấp dưỡng nuôi con. Chị L và anh K không có tài sản chung và nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền xét xử: Đây là quan hệ tranh chấp về ly hôn, bị đơn có nơi cư trú trên địa giới hành chính huyện U Minh Thượng, tỉnh Kiên Giang. Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 Tòa án nhân dân huyện U Minh Thượng, tỉnh Kiên Giang xét xử là đúng thẩm quyền.

[2] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn anh Nguyễn Phương K được Tòa án triệu tập tham gia phiên tòa xét xử lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh K.

[3] Về nội dung vụ án:

Về hôn nhân: Chị L và anh K xác lập hôn nhân trên cơ sở tự nguyện, được sự thống nhất của hai bên gia đình tổ lễ cưới vào năm 2016, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã MT, huyện UMT, tỉnh Kiên Giang vào ngày 25/8/2016 nên quan hệ hôn nhân của chị L và anh K là hợp pháp.

Chị L trình bày trong quá trình chung sống nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng là do anh K không chí thú làm ăn, suốt ngày chỉ lo chơi bời, không quan tâm đến cuộc sống gia đình, nhiều lần chị L khuyên nhủ nhưng anh K không nghe mà còn cự cãi, từ đó cuộc sống hôn nhân không có hạnh phúc. Chị L và anh K sống ly thân từ tháng 01 năm 2020 đến nay, chị L về nhà mẹ ruột sống, vợ chồng không còn quan tâm đến cuộc sống riêng tư của nhau.

Ngày 18/11/2021, Tòa án đã tiến hành xác minh nguyên nhân mâu thuẫn giữa chị L và anh K, chính quyền địa phương cho biết nguyên nhân chị L và anh K xảy ra mâu thuẫn là do anh K cờ bạc, không chí thú làm ăn.

Hội đồng xét xử nhận thấy chị L và anh K sống ly thân từ tháng 01 năm 2020 đến nay. Vợ chồng mâu thuẫn trong thời gian dài nhưng hai bên cũng không có biện pháp tích cực để hàn gắn tình cảm, hiện nay vợ chồng không còn sống chung với nhau. Anh K cũng không có ý kiến gì đối với yêu cầu ly hôn của chị L.

Từ đó cho thấy mâu thuẫn giữa chị L và anh K đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống hôn nhân không hạnh phúc. Vì vậy căn cứ theo quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị L.

Về con chung: Chị L và anh K có 01 người con chung tên Nguyễn Phương A, sinh ngày 29/3/2017, giới tính nữ, con đang sống với chị L. Khi ly hôn chị L yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con, không yêu cầu anh K cấp dưỡng nuôi con.

Hội đồng xét xử nhận thấy cháu Phương Anh đang sống với chị L, được chăm sóc tốt. Đồng thời anh K cũng không có ý kiến về con chung. Do đó Hội đồng xét xử căn cứ Điều 81 và Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, giao cháu Phương Anh cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng. Anh K không phải cấp dưỡng nuôi con.

Anh K có quyền có quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng con chung không ai có quyền ngăn cản nhưng không được lợi dụng quyền thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến người trực tiếp nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Chị L trình bày chị L và anh K không có tài sản chung và nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Trong trường hợp, sau khi ly hôn có phát sinh tranh chấp về quyền tài sản và nợ trong thời kỳ hôn nhân thì sẽ được xem xét giải quyết bằng một vụ kiện dân sự khác.

[3] Về án phí ly hôn sơ thẩm: Chị Hà Thị L phải chịu án phí ly hôn là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng), được khấu trừ tiền tạm ứng án phí chị L đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng), theo lai thu số 0000738 ngày 22/6/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện U Minh Thượng, tỉnh Kiên Giang.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.

Các điều 8, 9, 56, 81, 82 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Chấp nhận cho chị Hà Thị L được ly hôn với anh Nguyễn Phương K.

2. Về con chung: Giao con chung tên tên Nguyễn Phương A, sinh ngày 29/3/2017, giới tính nữ cho chị Hà Thị L trực tiếp nuôi dưỡng. Anh Nguyễn Phương K không phải cấp dưỡng nuôi con.

Anh K có quyền có quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng con chung không ai có quyền ngăn cản nhưng không được lợi dụng quyền thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến người trực tiếp nuôi con.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Chị L trình bày chị L và anh K không có tài sản chung và nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Trong trường hợp, sau khi ly hôn có phát sinh tranh chấp về quyền tài sản và nợ trong thời kỳ hôn nhân thì sẽ được xem xét giải quyết bằng một vụ kiện dân sự khác.

4. Về án phí ly hôn sơ thẩm: Chị Hà Thị L phải chịu án phí ly hôn là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng), được khấu trừ tiền tạm ứng án phí chị L đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng), theo lai thu số 0000738 ngày 22/6/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện U Minh Thượng, tỉnh Kiên Giang.

5. Báo quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm, báo cho các đương sự biết có quyền kháng cáo Bản án trong hạn luật định là 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 13/12/2021), đương sự vắng mặt thì thời hạn kháng cáo được tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

150
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn và nuôi con số 19/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:19/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện U Minh Thượng - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 13/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;