Bản án về tranh chấp ly hôn và nuôi con chung số 36/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲNH PHỤ, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 36/2022/HNGĐ-ST NGÀY 14/06/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON CHUNG

Ngày 14 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Q, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 33/2022/TLST- HNGĐ ngày 14 tháng 3 năm 2022 về tranh chấp ly hôn và nuôi con chung theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 30/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 10 tháng 5 năm 2022 và quyết định hoãn phiên tòa số 22/2022/QĐST-HNGĐ ngày 31 tháng 5 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Lê Thị H sinh năm 1995 Nơi ĐKHKTT: Thôn Đ, xã X, huyện Q, tỉnh Thái Bình; Nơi cư trú: Thôn D, xã Đ, huyện Q, tỉnh Thái Bình

- Bị đơn: Anh Mai Văn L sinh năm 1988 Nơi cư trú: Thôn Đ, xã X, huyện Q, tỉnh Thái Bình (Tại phiên tòa có mặt chị H; vắng mặt anh L)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện, tại phiên tòa và trong quá trình xét xử nguyên đơn chị Lê Thị H trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Mai Văn L tự nguyện, tự do tìm hiểu dẫn đến hôn nhân, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã X vào ngày 15/3/2019.

Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại gia đình anh L. Ngay sau khi kết hôn vợ chồng đã phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hợp nhau, cộng với việc chị có mâu thuẫn với bố mẹ đẻ anh L. Mâu thuẫn căng thẳng vào tháng 02/2022, chị đã bỏ về nhà bổ mẹ đẻ ở Thôn D, xã Đ sinh sống, vợ chồng ly thân từ đó cho đến nay. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng giữa chị và anh L không còn, chị xin ly hôn anh L.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là Mai Anh T sinh ngày 05/3/2021, hiện đang ở với chị. Ly hôn, chị nhận trách nhiệm trực tiếp nuôi dưỡng con chung, chị không yêu cầu anh L cấp dưỡng cho con. Hiện tại, chị không có thai nghén gì.

Về tài sản chung: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại biên bản lấy lời khai và biên bản hòa giải bị đơn anh Mai Văn L trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Anh xác nhận về thời gian, điều kiện, hoàn cảnh kết hôn như chị Lê Thị H đã trình bày là đúng. Theo anh vợ chồng không có gì mâu thuẫn lớn, anh xác nhận chị H có mâu thuẫn với bố mẹ đẻ anh nhưng đó là những mâu thuẫn nhỏ trong sinh hoạt hàng ngày. Từ tháng 02/2022 chị H đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở Thôn D, xã Đ sinh sống, vợ chồng ly thân từ đó cho đến nay. Nay chị H có đơn xin ly hôn, anh xác nhận tình cảm vợ chồng giữa anh và chị H vẫn còn, anh không đồng ý ly hôn chị H.

Về con chung: Vợ chồng có có 01 con chung như chị H đã trình bày là đúng. Ly hôn, anh nhận trách nhiệm trực tiếp nuôi dưỡng con chung, anh không yêu cầu chị H cấp dưỡng cho con nhưng nếu chị H trực tiếp nuôi con thì anh không cấp dưỡng cho con.

Về tài sản chung: Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Kết quả xác minh với cơ sở Thôn Đ, xã X, huyện Q thấy:Anh Mai Văn L và chị Lê Thị H là vợ chồng. Quá trình chung sống và nguyên nhân mâu thuẫn của vợ chồng thì gia đình và cơ sở thôn không biết rõ, chỉ biết chị H có mâu thuẫn với bố mẹ đẻ anh L, từ tháng 02/2022 chị H không sinh sống tại gia đình anh L nữa. Nay chị H có đơn xin ly hôn anh L cơ sở thôn đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. Chị H và anh L có 01 con chung là Mai Anh T sinh ngày 05/3/2021, hiện đang ở với chị H. Nếu Tòa án giải quyết cho chị H và anh L ly hôn về con chung và cấp dưỡng cho con đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. Về tài sản chung của anh L và chị H cơ sở thôn không biết rõ.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh, tỉnh Thái Bình về giải quyết vụ án:

Về tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn, đều tuân thủ đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Tại phiên tòa, bị đơn vắng mặt nên Viện kiểm sát không có ý kiến về chấp hành pháp luật tại phiên tòa của bị đơn tại phiên tòa.

Về nội dung: Đề nghị HĐXX căn cứ vào các Điều 51, 56, 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và gia đình: Về quan hệ hôn nhân: xử cho chị Lê Thị H được ly hôn anh Mai Văn L; Về con chung: giao con chung Mai Anh T sinh ngày 05/3/2021 cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng, chị H không yêu cầu anh L cấp dưỡng cho con. Về tài sản chung: không đặt ra giải quyết; Về án phí: chị H phải chịu tiền án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét, kiểm tra tại phiên tòa và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định.

[1] Về tố tụng: Chị Lê Thị H khởi kiện ly hôn và nuôi con chung với anh Mai Văn L. Do anh L là bị đơn cư trú tại Thôn Đ, xã X, huyện Q, tỉnh Thái Bình nên TAND huyện Q, thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28 và khoản 1 Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự. Anh L đã được Tòa án triệu tập hợp lệ hai lần nhưng vẫn vắng mặt, vì vậy, Tòa án tiến hành xét xử là phù hợp với quy định tại Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị Lê Thị H và anh Mai Văn L xây dựng trên cơ sở tự nguyện, được Ủy ban nhân xã X, huyện Q, tỉnh Thái Bình cấp đăng ký kết hôn số 07 ngày 15/3/2019 là hôn nhân hợp pháp. Ngay sau khi kết hôn thì vợ chồng đã phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hợp nhau, không thương yêu thông cảm cho nhau, cộng với việc chị H có mâu thuẫn với bố mẹ đẻ anh L. Mâu thuẫn căng thẳng vào tháng 02/2022, chị H đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở thôn D, xã Đ sinh sống, vợ chồng ly thân từ đó cho đến nay. Nay chị H xác định tình cảm vợ chồng giữa chị và anh L không còn, chị xin ly hôn anh L. Anh L xác định tình cảm vợ chồng giữa anh và chị H vẫn còn, anh không nhất trí ly hôn chị H nhưng anh L không đưa ra biện pháp nào để hàn gắn, cải thiện quan hệ vợ chồng. Tòa án tiến hành hòa giải nhưng không có kết quả, mặt khác trong quá trình giải quyết vụ án chị H và anh L vẫn ly thân, không ai quan tâm đến ai, điều đó cho thấy mâu thuẫn giữa chị H và anh L đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, hôn nhân của anh chị thực tế chỉ còn tồn tại về mặt hình thức, vì vậy cần xử cho chị H được ly hôn anh L là phù hợp với quy định tại Điều 51 và 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung: Chị Lê Thị H và anh Mai Văn L có 01 con chung là Mai Anh T sinh ngày 05/3/2021, hiện đang ở với chị H. Ly hôn, chị H nhận trách nhiệm trực tiếp nuôi dưỡng con chung, chị không yêu cầu anh L cấp dưỡng cho con, anh L cũng có nguyện vọng trực tiếp nuôi dưỡng con chung, anh không yêu cầu chị H cấp dưỡng cho con nhưng nếu chị H trực tiếp nuôi con thì anh không cấp dưỡng cho con. Xét nguyện vọng nuôi con của chị H, anh L là chính đáng, cả hai đều có điều kiện nuôi con ngang nhau. Tuy nhiên, con chung dưới 36 tháng tuổi, ở độ tuổi cần sự quan tâm chăm sóc trực tiếp cùa mẹ , lại đang do chị H trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng nên cần giao con chung cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng, chị H không yêu cầu anh L cấp dưỡng cho con là phù hợp với tình hình thực tế của con chung, đáp ứng được nguyện vọng của các đương sự và phù hợp với Điều 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và gia đình.

[4] Về tài sản chung: Chị Lê Thị H và anh Mai Văn L không yêu cầu Tòa án giải quyết nên về tài sản chung Hội đồng xét xử không xét.

[5] Về án phí: Chị Lê Thị H phải chịu cả tiền án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự và Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

[6] Về quyền kháng cáo: Chị Lê Thị H và anh Mai Văn L có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, Điều 227, Điều 228 và Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 51, 56, 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

1.Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Lê Thị H được ly hôn anh Mai Văn L.

2.Về nuôi con chung: Xử giao con chung Mai Anh T sinh ngày 05/3/2021 cho chị Lê Thị H trực tiếp nuôi dưỡng, chị H không yêu cầu anh L cấp dưỡng cho con chung. Anh L có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

3.Về tài sản chung: Hội đồng xét xử không giải quyết.

4.Về án phí: Chị Lê Thị H phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí ly hôn sơ thẩm. Số tiền 300.000 đồng chị H đã nộp theo biên lai thu số 0004610 ngày 14 tháng 3 năm 2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Q được chuyển thành tiền án phí.

5.Về quyền kháng cáo: Chị Lê Thị H có quyền kháng cáo bản án trong Hn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Mai Văn L có quyền kháng cáo bản án trong Hn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án hợp lệ theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

16
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

 Bản án về tranh chấp ly hôn và nuôi con chung số 36/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:36/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quỳnh Phụ - Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;