TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KIÊN LƯƠNG, TỈNH KIÊN GIANG
BẢN ÁN 173/2024/HNGĐ-ST NGÀY 30/09/2024 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON CHUNG
Trong hai ngày 13 và ngày 30 tháng 9 năm 2024 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kiên Lương xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 149/2024/TLST-HNGĐ ngày 17 tháng 7 năm 2024 về việc “Tranh chấp về ly hôn và nuôi con chung ” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 126/2024/QĐXXST-HNGĐ, ngày 06 tháng 8 năm 2024 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 35/2024/QĐST-HNGĐ, ngày 14 tháng 8 năm 2024 giữa:
1/ Nguyên đơn: Ông Nguyễn Hải S, sinh ngày 15/7/1967 (Có mặt).
Địa chỉ: Số C đường N, quận H, thành phố Đà Nẵng.
2/ Bị đơn: Bà Phạm Thị T, sinh ngày 09/01/1984 (có đơn xét xử vắng mặt).
Địa chỉ: Tổ D, ấp C, xã H, huyện K, tỉnh Kiên Giang.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện và các lời khai có trong hồ sơ vụ án nguyên đơn ông Nguyễn Hải S trình bày:
- Về hôn nhân: Ông S và bà Phạm Thị T tự nguyện tiến tới hôn nhân, kết hôn vào năm 2015, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn C, huyện P, tỉnh Cà Mau vào ngày 01/9/2015. Sau khi kết hôn vợ chồng sống ở thành phố Hồ Chí Minh, lúc đầu thì hạnh phúc đến năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân là do bà Phạm Thị T có quan hệ bất chính với người khác, sau đó ông và bà T vẫn chung sống lại bình thường, đến năm 2021 thì lại phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân là do bà T tự ý bỏ nhà đi cho đến nay và mang con theo. Nay ông S yêu cầu Tòa án giải quyết cho ông được ly hôn với bà Phạm Thị T.
- Về con chung: Có 01 người con chung là Nguyễn Phạm Quỳnh A, sinh ngày 15/4/2016. Ông yêu cầu được nuôi dưỡng con, không yêu cầu bà T cấp dưỡng nuôi con. Vì bà T đã vi phạm luật hôn nhân gia đình, vi phạm đạo đức nên không có quyền nuôi con và bà T cũng đã có con với người khác.
- Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu.
- Về nợ chung: Không có, không yêu cầu.
Theo bản tự khai và các lời khai có trong hồ sơ vụ án bị đơn bà Phạm Thị T trình bày:
- Về hôn nhân: Bà T và ông Nguyễn Hải S có đăng ký kết hôn như ông S trình bày. Còn về mâu thuẫn gia đình là do trước đây bà làm nghề bán quán karaoke vào năm 2016 bà có nói chuyện điện thoại với người chị thì ông S tưởng bà nói chuyện với người đàn ông khác nên giựt lấy điện thoại và bẻ tay bà đến sụp xương vai và bà phải nhập viện sau đó vợ chồng sống lại với nhau, đến năm 2018 thì vợ chồng ly thân và khoảng 02 năm sau đó vợ chồng sống lại được vài tháng, đến năm 2021 do dịch bệnh thì bà mang con về quê từ đó vợ chồng sống ly thân cho đến nay. Nay ông S khởi kiện xin ly hôn thì bà đồng ý ly hôn. Sau khi ly thân bà có quen 01 người đàn ông khác sau đó có thai bà tự đẻ con, bà đã giao đứa con này cho bên nội nuôi dưỡng, bà cũng không có sống chung với người đàn ông này.
- Về con chung: Có 01 người con chung là Nguyễn Phạm Quỳnh A, sinh ngày 15/4/2016. Bà T yêu cầu được nuôi dưỡng con, không yêu cầu ông S phải cấp dưỡng nuôi con. Vì từ trước đến nay con vẫn sống chung với bà và sau này con lớn lên muốn theo ai thì do con lựa chọn.
- Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu.
- Về nợ chung: không có, không yêu cầu.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện K phát biểu ý kiến:
Về tố tụng: Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đúng quy định pháp luật.
Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử công nhận thuận tỉnh ly hôn giữa ông Nguyễn Hải S với bà Phạm Thị T, về con chung: Giao cháu Nguyễn Phạm Quỳnh A cho bà T tiếp tục nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành, về cấp dưỡng nuôi con: Ghi nhận sự tự nguyện của ông S cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 3.000.000đồng cho đến khi con trưởng thành (đủ 18 tuổi). Ngoài ra, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét đến án phí và các vấn đề khác theo quy định pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn bà Phạm Thị T có đơn xét xử vắng mặt. Căn cứ khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự nên Tòa án vẫn tiến hành xét xử.
[2] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết: Bị đơn bà Phạm Thị T có nơi cư trú tại: Tổ D, ấp C, xã H, huyện K, tỉnh Kiên Giang. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Kiên Lương, tỉnh Kiên Giang. Đây là vụ kiện “Tranh chấp về ly hôn và nuôi con chung” được quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[3] Về quan hệ hôn nhân: Ông Nguyễn Hải S và bà Phạm Thị T tự nguyện tiến tới hôn nhân, có đăng ký kết hôn và được cấp giấy chứng nhận kết hôn cho nên hôn nhân giữa ông S và bà T là hợp pháp. Trong quá trình chung sống vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn, đã ly thân từ năm 2021 cho đến nay. Xét thấy hôn nhân giữa ông S và bà T có nhiều mâu thuẫn trầm trọng không thể hàn gắn được, đồng thời ông S và bà T đều đồng ý ly hôn. Do đó, Hội đồng xét xử công nhận thuận tỉnh ly hôn giữa ông S và bà T là phù hợp với quy định tại Điều 55 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.
[4] Về con chung: Có 01 con chung tên là Nguyễn Phạm Quỳnh A, sinh ngày 15/4/2016, ông S và bà T đều có yêu cầu được nuôi dưỡng cháu Quỳnh A đến tuổi trưởng thành, cả hai không yêu cầu bên kia cấp dưỡng nuôi con chung.
Xét yêu cầu của ông S thì Hội đồng xét xử nhận thấy: Ông S làm nghề kinh doanh dịch vụ ăn uống thu nhập bình quân hàng tháng từ 15.000.000đồng. Tuy mức thu nhập của ông S cũng tương đối cao, nhưng do ông S từ trước đến nay ít gần gũi, chăm sóc cháu Quỳnh A, đồng thời cháu Quỳnh A có ý kiến là muốn sống cùng mẹ. Tại phiên tòa ông S khai nại cháu Quỳnh A chung sống với bà T thì bà T có hành vi đánh đập cháu và trước đây ông có nói chuyện về vấn đề nuôi dưỡng cháu Quỳnh A thì bà T có đặt điều kiện giao cháu Quỳnh A cho ông S nuôi dưỡng thì ông S phải có nghĩa vụ đưa cho bà T số tiền là 300.000.000đồng và Tòa án có yêu cầu ông S cung cấp chứng cứ chứng minh yêu cầu này của mình nhưng ông S không cung cấp được. Vì vậy không đủ điều kiện để Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận yêu cầu của ông S.
Đối với yêu cầu của bà T, Hội đồng xét xử nhận thấy: cháu Quỳnh A sống chung với bà T từ nhỏ cho đến nay đã quen, cháu vẫn phát triển bình thường về thể chất và tinh thần, cháu vẫn được đến trường như các bạn cùng trang lứa, bà T làm nghề mua bán cũng đủ thu nhập để nuôi cháu Quỳnh A. Qua đó, xét thấy bà T có đủ điều kiện để đảm bảo nhu cầu thiết yếu về ăn, ở, học tập, vui chơi và đảm bảo mọi điều kiện cho sự phát triển của cháu Quỳnh A. Mặt khác, tại biên bản ghi nhận ý kiến cháu Quỳnh A có nguyện vọng sống với bà T và hiện tại cháu cũng đang sống chung cùng với mẹ.
Vì vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà T và giao con chung tên Nguyễn Phạm Quỳnh A, sinh ngày 15/4/2016 cho bà T tiếp tục nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành (đủ 18 tuổi) là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.
Về cấp dưỡng nuôi con: Qua hồ sơ thấy bà T không yêu cầu ông S phải cấp dưỡng nuôi con nhưng tại phiên tòa ông S cho rằng trong trường hợp giao con cho bà T nuôi dưỡng thì ông tự nguyện cấp dưỡng nuôi con. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu này của ông S và ghi nhận sự tự nguyện của ông S về cấp dưỡng nuôi cháu Quỳnh A mỗi tháng 3.000.000đồng cho đến khi con đủ tuổi trưởng thành (đủ 18 tuổi).
[5] Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu nên miễn xét.
[6] Về nợ chung: Không có, không yêu cầu nên miễn xét.
[7] Xét quan điểm và đề nghị của Viện kiểm sát là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.
[8] Về án phí: Do ông S và bà T thuận tình ly hôn trước khi Tòa án mở phiên tòa nên án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm là 150.000đồng, mỗi bên phải chịu ½ án phí và án phí dân sự sơ thẩm là 300.000đồng, ông S phải chịu. Theo đó, ông S phải nộp 375.000đồng, bà T phải nộp 75.000đồng
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ và khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 và khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Áp dụng Điều 55, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.
Tuyên xử:
1/ Về hôn nhân: Công nhận thuận tình ly hôn giữa ông Nguyễn Hải S và bà Phạm Thị T.
2/ Về con chung: Giao cháu Nguyễn Phạm Quỳnh A, sinh ngày 15/4/2016 cho bà Phạm Thị T tiếp tục nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành (đủ 18 tuổi) Về cấp dưỡng nuôi con chung: Ghi nhận sự tự nguyện của ông S về cấp dưỡng nuôi con tên Nguyễn Phạm Quỳnh A mỗi tháng 3.000.000đồng (Ba triệu đồng) cho đến khi con đủ tuổi trưởng thành (đủ 18 tuổi). Thời gian thực hiện cấp dưỡng nuôi con kể từ ngày án có hiệu lực pháp luật.
Ông S được quyền thăm nom và chăm sóc con chung, không ai được quyền ngăn cản quyền này.
3/ Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu nên miễn xét.
Về nợ chung: Không có, không yêu cầu nên miễn xét.
4/ Về án phí: Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm là 150.000đồng, mỗi bên phải chịu ½ án phí và án phí dân sự sơ thẩm là 300.000đồng.
- Bà Phạm Thị T phải nộp án phí là 75.000 đồng (bảy mươi lăm nghìn đồng).
- Ông Nguyễn Hải S phải nộp án phí là 375.000đ, được khấu trừ vào án phí tạm nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí số 0004057 ngày 17/7/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kiên Lương. Theo đó, ông Nguyễn Hải S còn phải nộp án phí số tiền 75.000đồng.
5/ Quyền kháng cáo: Nguyên đơn (vắng mặt tuyên án), bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết công khai theo quy định pháp luật.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phát thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 7a, Điều 7b và Điều 9 Luật thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014.
Bản án về tranh chấp ly hôn và nuôi con chung số 173/2024/HNGĐ-ST
| Số hiệu: | 173/2024/HNGĐ-ST |
| Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
| Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Kiên Lương - Kiên Giang |
| Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
| Ngày ban hành: | 30/09/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về