Bản án về tranh chấp ly hôn số 79/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VŨNG TÀU, TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU

BẢN ÁN 79/2022/HNGĐ-ST NGÀY 15/07/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 15 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 472/2022/TLST- HNGĐ ngày 16 tháng 5 năm 2022 về việc “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 77/2022/QĐST-HNGĐ ngày 16 tháng 6 năm 2022, Quyết định hoãn phiên tòa số: 50/2022/QĐ-ST ngày 08 tháng 7 năm 2022, giữa:

Nguyên đơn: Bà Bùi Thị T, sinh năm 1990, địa chỉ: 444/49 TP, Phường 5, thành phố VT, tỉnh BR-VT.

Bị đơn: Ông Phạm Văn T1, sinh năm 1987; địa chỉ: 348 TP, Phường 5, thành phố VT, tỉnh BR-VT.

(Bà T vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt; ông T1 vắng mặt không có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn bà Bùi Thị T trình bày:

Bà và ông Phạm Văn T1 quen nhau và tìm hiểu được 03 tháng, đến năm 2014 thì đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Phước Hưng, huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu và được cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 11 ngày 14-02- 2014. Sau khi kết hôn, ông T1 thường xuyên chơi cờ bạc, ăn nhậu về khuya hoặc đi qua đêm, không quan tâm đến gia đình nên vợ chồng bà phát sinh nhiều mâu thuẫn, cãi vã. Bà cũng nhiều lần khuyên bảo, đề nghị ông T1 sửa đổi để vợ chồng cùng nhau xây dựng kinh tế, nuôi dạy con cái nhưng ông T1 không thực hiện. Cuối năm 2017, bà và ông T1 ly thân, bà ra ngoài chung sống cùng 02 con, vợ chồng bà không còn quan tâm chăm sóc lẫn nhau cho đến nay. Vì vậy, bà xác định không còn tình cảm với ông T1, yêu cầu Tòa án giải quyết cụ thể như sau:

Về quan hệ hôn nhân: Yêu cầu được ly hôn với ông Phạm Văn T1.

Về con chung, cấp dưỡng: Bà và ông T1 có 02 con chung là Phạm Văn Trọng, sinh ngày 11-11-2014 và Phạm Đức Đại, sinh ngày 25-11-2015; bà yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng 02con chung và không yêu cầu ông T1 cấp dưỡng.

Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tại phiên tòa, Nguyên đơn bà Bùi Thị T vắng mặt, có đơn giữ nguyên các ý kiến trình bày ở giai đoạn trước khi xét xử và xin vắng mặt tại phiên tòa.

Bị đơn ông Phạm Văn T1 đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để làm việc, tham gia phiên họp về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và tham gia phiên hòa giải, tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt không lý do.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vũng Tàu phát biểu tại phiên tòa:

Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay, Hội đồng xét xử và nguyên đơn tuân thủ đúng quy định pháp luật về tố tụng dân sự, bị đơn không thực hiện đúng quy định pháp luật về tố tụng dân sự. Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu đã tiến hành các thủ tục tống đạt đối với nguyên đơn, bị đơn theo đúng quy định nhưng nguyên đơn vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt, bị đơn vắng mặt không có lý do tại phiên tòa lần 2 nên Tòa án xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn là đúng quy định pháp luật.

Về nội dung: Căn cứ các quy định pháp luật về Luật Hôn nhân và gia đình, kết quả xác minh của Tòa án, chứng cứ trong hồ sơ, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định: [1] Về áp dụng pháp luật tố tụng:

[1.1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết vụ án: bà Bùi Thị T khởi kiện yêu cầu ly hôn với ông Phạm Văn T1 nên đây là vụ án "tranh chấp ly hôn" thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự; bị đơn ông Phạm Văn T1 có nơi cư trú tại thành phố Vũng Tàu nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu theo quy định tại điểm a Khoản 1 Điều 35 và điểm a Khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[1.2] Nguyên đơn bà Bùi Thị T, bị đơn ông Phạm Văn T1 đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng và giấy triệu tập để tham gia phiên tòa lần thứ 2 nhưng nguyên đơn vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt; bị đơn vắng mặt không có lý do. Do đó, căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.

[2] Về áp dụng pháp luật nội dung:

[2.1] Bà T và ông T1 kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Phước Hưng, huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu và được cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 11 ngày 14-02-2014 nên là hôn nhân hợp pháp.

Theo bà T trình bày: Sau khi kết hôn, bà và ông T1 đã phát sinh mâu thuẫn do ông T1 thường xuyên chơi cờ bạc, ăn nhậu về khuya hoặc đi qua đêm, không quan tâm đến gia đình. Bà cũng nhiều lần khuyên bảo, đề nghị ông T1 sửa đổi để vợ chồng cùng nhau xây dựng kinh tế, nuôi dạy con cái nhưng ông T1 không thực hiện. Cuối năm 2017, bà và ông T1 ly thân, bà ra ngoài chung sống cùng 02 con, vợ chồng bà không còn quan tâm chăm sóc lẫn nhau cho đến nay. Bà xác định không còn tình cảm với ông T1.

Kết quả xác minh của Tòa án với địa phương nơi bà T, ông T1 sinh sống có nội dung: Trong thời gian cư trú tại địa phương thì bà T, ông T1 có xảy ra mâu thuẫn nhưng địa phương không nắm rõ nguyên nhân mâu thuẫn vì bà bà T, ông T1 không trình báo và yêu cầu hòa giải. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã gửi các văn bản tố tụng và triệu tập ông T1 đến làm việc nhưng ông T1 không tham dự cũng như không có ý kiến phản hồi, cho thấy ông T1 không quan tâm đến tâm tư nguyện vọng của bà T và không có thiện chí khắc phục mâu thuẫn để đoàn tụ gia đình.

Xét thấy, tình nghĩa vợ chồng phải xuất phát từ hai phía, cả hai cùng có nghĩa vụ thương yêu, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau. Thực tế, bà T xác định không còn tình cảm vợ chồng với ông T1 và giữ nguyên ý kiến trình bày, yêu cầu khởi kiện của mình, cho thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa bà T với ông T1 đã lâm vào tình trạng trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Xét yêu cầu được chấm dứt quan hệ hôn nhân của bà T với ông T1 là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận theo quy định tại Điều 51, 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[2.2] Về con chung, cấp dưỡng:

Bà T trình bày: Bà và ông T1 có 02 con chung là Phạm Văn Trọng, sinh ngày 11-11-2014 và Phạm Đức Đại, sinh ngày 25-11-2015; Từ năm 2017, bà là người trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung là Phạm Văn Trọng và Phạm Đức Đại, các cháu được bà T nuôi dưỡng và đi học đầy đủ, thời gian này ông T1 cũng không chu cấp tiền bạc và thăm con chung. Bà T yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung và không yêu cầu ông T1 cấp dưỡng. Xét yêu cầu trên của bà T thì thấy phù hợp với thực tế, bảo đảm quyền lợi chính đáng của các cháu Phạm Văn Trọng, Phạm Đức Đại. Bởi lẽ, hai cháu Trọng, Đại còn nhỏ, đang được bà T chăm sóc, còn cháu Trọng có nguyện vọng được ở với bà T. Mặt khác, Tòa án đã gửi các văn bản tố tụng và triệu tập ông T1 đến làm việc nhưng ông T1 không tham dự và không có ý kiến gì đối với các yêu cầu của bà T, trong đó có yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung, do đó không có cơ sở để Hội đồng xét xử xem xét ý kiến của ông T1. Xét việc bà T không yêu cầu ông T1 cấp dưỡng thì thấy đây là ý kiến tự nguyện và sự tự nguyện này không vi phạm pháp luật, không trái đạo đức xã hội Vì vậy, căn cứ Khoản 2 Điều 81 luật Hôn nhân và gia đình Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà T về việc bà T được tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung là Phạm Văn Trọng và Phạm Đức Đại, ông T1 không cấp dưỡng nuôi con chung.

[2.3] Về tài sản chung và nợ chung: Bà T không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Về án phí sơ thẩm: Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, bà T phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân sơ thẩm. Ông T1 không phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

Căn cứ vào:

QUYẾT ĐỊNH

- Khoản 1 Điều 28; điểm a Khoản 1 Điều 35; điểm a Khoản 1 Điều 39; Khoản 4 Điều 147; điểm b Khoản 2 Điều 227 và Khoản 3 Điều 228, Điều 266; Điều 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Các Điều 51, 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Bùi Thị T.

Về quan hệ hôn nhân: bà Bùi Thị T được ly hôn với ông Phạm Văn T1.

Về con chung, cấp dưỡng: bà Bùi Thị T được trực tiếp nuôi dưỡng con chung là Phạm Văn Trọng, sinh ngày 11-11-2014 và Phạm Đức Đại, sinh ngày 25- 11-2015; ông Phạm Văn T1 không cấp dưỡng nuôi con chung.

Người không trực tiếp nuôi dưỡng con chung có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung mà không ai có quyền cản trở. Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của cha, mẹ của con hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình, Toà án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, buộc cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.

Về tài sản chung, nợ chung: bà Bùi Thị T không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

2.Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm:

Bà Bùi Thị T phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0002425 ngày 13 tháng 5 năm 2022 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Vũng Tàu; bà T đã nộp xong án phí.

Ông Phạm Văn T1 không phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

3. Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xét xử theo trình tự phúc thẩm. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo được tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 luật thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

110
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 79/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:79/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vũng Tàu - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;