Bản án về tranh chấp ly hôn số 79/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CÁI BÈ, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 79/2022/HNGĐ-ST NGÀY 13/04/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Trong ngày 13 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang mở phiên toà xét xử sơ thẩm vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 55/2022/TLST-HNGĐ ngày 20 tháng 01 năm 2022 về việc “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 61/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 07 tháng 3 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Lê Thị Tô Mộng T, sinh năm: 1997; (có mặt) Địa chỉ: Ấp 3, xã A, huyện C, tỉnh T.

- Bị đơn: Anh Trần Vũ Hoài L, sinh năm: 1996; (có mặt) Địa chỉ: Ấp M, xã T, huyện C, tỉnh T.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện, tờ tự khai, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn Chị Lê Thị Tô Mộng T trình bày:

Chị và Anh Trần Vũ Hoài L chung sống vợ chồng với nhau vào năm 2019, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã T, huyện C, tỉnh T cấp giấy chứng nhận kết hôn số 36 ngày 14/6/2019. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2020 thì phát sinh nhiều mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, tính tình không hợp nhau, vợ chồng thường xuyên cự cãi nhau, Anh L thường xuyên đi nhậu về nhà còn dùng dao và hăm dọa giết chị, khi chị nộp đơn ly hôn Anh L đã đăng tin và hình ảnh của chị lên mạng xã hội để xúc phạm danh dự và hăm dọa chị. Chị và Anh L đã ly thân từ năm 2021 cho đến nay, vợ chồng không còn quan tâm chăm sóc lẫn nhau. Nay nhận thấy mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng, tình cảm không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị yêu cầu được ly hôn với Anh L.

Về con chung: Không có.

Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Bị đơn Anh Trần Vũ Hoài L trình bày: Anh thống nhất với những lời trình bày của Chị T về hôn nhân, con chung, tài sản chung và nợ chung. Về mâu thuẫn như Chị T trình bày là không đúng. Do anh buồn chuyện giữa vợ chồng nên anh có đi nhậu, khi về anh có nóng giận và hăm dọa Chị T chứ giữa vợ chồng anh chị không có mâu thuẫn gì lớn. Anh cũng có đăng tin và hình ảnh vợ lên mạng xã hội như Chị T trình bày nhưng sau đó anh thấy sai nên đã tự gỡ tin xuống. Nay anh không đồng ý ly hôn theo yêu cầu của Chị T do anh còn thương vợ và mong muốn vợ chồng đoàn tụ.

Về con chung: Không có.

Về tài sản chung: Không yêu cầu tòa án giải quyết. Về nợ chung: Không yêu cầu tòa án giải quyết

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết của Tòa án: Xét thấy, Chị T yêu cầu Tòa án giải quyết về việc ly hôn với Anh L nên đây là quan hệ pháp luật “Tranh chấp ly hôn” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Do bị đơn Anh L có nơi cư trú tại huyện Cái Bè nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Xét thấy, Chị T và Anh L kết hôn trên cơ sở tự nguyện, được Ủy ban nhân dân xã T, huyện C, tỉnh T cấp giấy chứng nhận kết hôn số 36 ngày 14/6/2019 nên là hôn nhân hợp pháp. Chị T cho rằng chị và Anh L chung sống hạnh phúc đến năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống, tính tình không hợp nhau, vợ chồng thường xuyên cự cãi, Anh L thường xuyên đi nhậu về nhà còn dùng dao và hăm dọa giết chị, khi chị nộp đơn ly hôn Anh L đã đăng tin và hình ảnh của chị lên mạng xã hội để xúc phạm danh dự và hăm dọa chị. Chị và Anh L đã ly thân từ năm 2021 cho đến nay, vợ chồng không còn quan tâm chăm sóc lẫn nhau. Nay nhận thấy mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng, tình cảm không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị yêu cầu được ly hôn với Anh L. Anh L cho rằng giữa vợ chồng không có mâu thuẫn gì lớn. Nay anh không đồng ý ly hôn theo yêu cầu của Chị T do anh còn thương vợ và mong muốn vợ chồng hàn gắn với nhau.

Xét thấy trong quá trình giải quyết vụ án, Chị T cương quyết xin ly hôn, không đồng ý đoàn tụ. Tại phiên tòa, Anh L thừa nhận khi có chuyện buồn giữa vợ chồng thì anh thường đi nhậu, khi về anh có nóng giận và hăm dọa Chị T, vợ chồng anh chị cũng thường xuyên cự cãi nhau. Ngoài ra, Anh L xác định anh có đăng tin và hình ảnh Chị T lên mạng xã hội như những lời trình bày Chị T trình bày, sau đó anh thấy sai nên đã tự gỡ tin xuống. Tại phiên tòa Anh L cũng không đưa ra được phương án cụ thể để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Từ đó cho thấy những mâu thuẫn giữa vợ chồng Anh L và Chị T đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 56 của Luật Hôn nhân gia đình chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của Chị T.

[3] Về con chung: Chị T và Anh L trình bày vợ chồng không có con chung, nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Chị T và Anh L trình bày không yêu cầu giải quyết về tài sản chung và nợ chung nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[5] Về án phí: Chị T phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm theo quy định của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, 56 Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Chị Lê Thị Tô Mộng T.

Về quan hệ hôn nhân: Cho Chị Lê Thị Tô Mộng T được ly hôn với Anh Trần Vũ Hoài L.

2. Về án phí: Chị Lê Thị Tô Mộng T phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân sơ thẩm. Chị T đã nộp 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0001234 ngày 20/01/2022 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang. Vậy Chị T đã thi hành xong án phí.

3. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn Chị Lê Thị Tô Mộng T, bị đơn Anh Trần Vũ Hoài L có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu xét xử phúc thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

241
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 79/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:79/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cái Bè - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 13/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;