Bản án về tranh chấp ly hôn số 70/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LONG XUYÊN, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 70/2022/HNGĐ-ST NGÀY 26/05/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 26 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình thụ lý số 99/2022/TLST-HNGĐ, ngày 15 tháng 3 năm 2022 về việc “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 118/2022/QĐXXST – HNGĐ ngày 08 tháng 4 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 110/2022/QĐST-DS ngày 29/4/2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Trần Thị H, sinh năm 1976;

Đa chỉ: Số A/B, khóm ĐT, phường MT, thành phố LX, tỉnh An Giang.

- Bị đơn: Ông Lê Minh V, sinh năm 1980;

Đa chỉ: Số A/B, khóm ĐT, phường MT, thành phố LX, tỉnh An Giang. (bà H có đơn xin xét xử vắng mặt, ông V vắng mặt lần 2)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và tại biên bản không tiến hành hòa giải được, nguyên đơn là bà Trần Thị H trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Bà H và ông V tự nguyện tìm hiểu sau đó tổ chức đám cưới và đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật tại Ủy ban nhân dân phường MT vào ngày 28/6/2001. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc được một thời gian đầu, về sau không còn hạnh phúc, phát sinh nhiều mâu thuẫn, bất hòa. Ông V hăm dọa sẽ giết bà và còn ghen tuông vô cớ. Vợ chồng bà H ông V tuy đã ly hôn 06 năm nhưng đến nay vẫn không hàn gắn được tình cảm. Bà H nhận thấy vợ chồng sống với nhau không hạnh phúc mục đích hôn nhân không đạt được nên bà yêu cầu được ly hôn với ông V.

Về quan hệ con chung: Có 03 con chung tên Lê Thị Cẩm HG, sinh ngày 20/12/1996; Lê Quang VH, sinh ngày 04/11/2000; Lê Thị Cẩm T, sinh ngày 23/08/2002. Con chung hiện nay đều đã trưởng thành và có khả năng lao động nên không yêu cầu xem xét.

Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: không có yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn Lê Minh V vắng mặt và cũng không có văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

* Tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án:

Bà H có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt lý do điều kiện đi lại khó khăn. Ông Lê Minh V vắng mặt lần thứ hai tại phiên tòa không có lý do.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Long Xuyên phát biểu ý kiến:

* Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử, Thư ký tại phiên tòa:

Hội đồng xét xử, Thư ký tòa án đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về việc xét xử sơ thẩm vụ án;

* Việc tuân theo pháp luật tố tụng của người tham gia tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý đến nay:

- Đối với nguyên đơn: đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định tại các Điều 70, 71 Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Đối với bị đơn: Từ khi thụ lý đến nay, bị đơn không có văn bản trình bày ý kiến cũng như không tham gia các phiên hoà giải do Toà án thực hiện là chưa thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định tại các Điều 70, 72 Bộ luật Tố tụng dân sự và còn phải chịu hậu quả pháp lý theo quy định pháp luật.

- Về nội dung:

Áp dụng các Điều 51, 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện bà H, bà H được ly hôn với ông V.

- Về con chung, tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên Toà, ý kiến của Kiểm sát viên. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Tranh chấp giữa bà Trần Thị H và ông Lê Minh V là tranh chấp về Hôn nhân và gia đình theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên thụ lý giải quyết.

[1.2] Bà Trần Thị H có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt do điều kiện đi lại khó khăn. Căn cứ khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử quyết định tiến hành xét xử vắng mặt bà H.

[1.3] Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành niêm yết công khai các văn bản tố tụng theo qui định tại Điều 179 Bộ luật Tố tụng dân sự, đồng thời tiến hành thu thập chứng cứ để xác định tình trạng cư trú của ông Lê Minh V và được Công an phường Mỹ Phước, thành phố Long Xuyên cung cấp thông tin “Ông Lê Minh V, sinh năm 1980, có đăng ký thường trú tại Số A/B, khóm ĐT, phường MT, thành phố LX, tỉnh An Giang”. Do đó, căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử quyết định vẫn tiến hành xét xử vắng mặt ông V.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Bà H và ông V tự nguyện tìm hiểu sau đó tổ chức đám cưới và đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật tại Ủy ban nhân dân phường MT vào ngày 28/6/2001. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc được một thời gian đầu, về sau không còn hạnh phúc, phát sinh nhiều mâu thuẫn, bất hòa. Ông V có hành vi hăm dọa sẽ giết bà H và còn ghen tuông vô cớ. Vợ chồng bà H ông V tuy đã ly hôn 06 năm nhưng đến nay vẫn không hàn gắn được tình cảm. Bà H nhận thấy vợ chồng sống với nhau không hạnh phúc mục đích hôn nhân không đạt được nên bà H yêu cầu được ly hôn với ông V.

[2.2] Phía bị đơn được Tòa án nhiều lần niêm yết các văn bản tố tụng tại nơi cư trú, tuy nhiên ông V vẫn không gửi văn bản trình bày ý kiến của mình qua yêu cầu ly hôn của bà H và không đến tham gia hòa giải. Như vậy, ông V đã từ bỏ quyền và nghĩa vụ của bị đơn được quy định tại Điều 70 và Điều 72 của Bộ luật Tố tụng dân sự và đồng nghĩa với việc ông H không còn quan tâm đến mối quan hệ hôn nhân của mình.

[2.3] Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cũng động viên bà H và tạo thêm thời gian để vợ chồng bà H ông V có cơ hội hàn gắn tình cảm. Tuy nhiên, bà H vẫn cương quyết yêu cầu ly hôn vì từ khi bà H, ông V ly thân đã 06 năm và cho đến nay thì giữa vợ chồng vẫn không hàn gắn được tình cảm. Từ đó, có thể nhận thấy ông V không còn quan tâm đến hôn nhân của mình, mặt khác tình cảm của bà H dành cho ông V không còn, tình trạng mâu thuẫn trong hôn nhân của ông bà đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Xét thấy, nếu tiếp tục duy trì cuộc hôn nhân này cũng không mang lại hạnh phúc cho cả hai. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình, chấp nhận yêu cầu của bà H được ly hôn với ông V.

[2.4] Về con chung: Bà H và ông V 03 con chung tên Lê Thị Cẩm HG, sinh ngày 20/12/1996; Lê Quang VH, sinh ngày 04/11/2000; Lê Thị Cẩm T, sinh ngày 23/08/2002. Con chung hiện nay đều đã trưởng thành và có khả năng lao động nên bà H không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do đó Hội đồng xét xử không xem xét.

[2.6] Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: Bà H không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản chung và nợ chung nên Hội đồng xét xử không xem xét. Nếu sau này, các bên phát sinh tranh chấp thì sẽ được giải quyết bằng vụ án khác.

[3] Về án phí: Bà Trần Thị H phải chịu án phí Hôn nhân sơ thẩm theo qui định pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 179; khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228; Điều 238; Điều 273 và khoản 1 Điều 280; khon 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

- Khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

- Điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

- Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện bà Trần Thị H. Bà Trần Thị H được ly hôn với ông Lê Minh V.

- Về con chung, tài sản chung và nợ chung: Không xem xét.

Về án phí: Bà Trần Thị H phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án hôn nhân và gia đình nhưng được khấu trừ vào 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0001071 ngày 15/3/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Long Xuyên, bà H đã nộp đủ án phí hôn nhân sơ thẩm.

Bà Trần Thị Thu H, ông Lê Minh V được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

271
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 70/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:70/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Long Xuyên - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;