Bản án về tranh chấp ly hôn số 70/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỦ THỪA - TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 70/2022/HNGĐ-ST NGÀY 27/07/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 27 tháng 7 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thủ Thừa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số:168/2022/TLST- HNGĐ, ngày 17/5/2022 về việc “Tranh chấp ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:66/2022/QĐST-HNGĐ, ngày 22/6/2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Lương Thị Thu H, sinh năm: 1988. Địa chỉ: Thôn H, xã H, huyện H, tỉnh B.

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Trọng H, sinh năm 1987. Địa chỉ: Ấp 5, xã T, huyện T, tỉnh A.

(Bà H có đơn xin xét xử vắng mặt. Ông H vắng mặt.)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện và lời trình bày của nguyên đơn bà Lương Thị Thu H trong suốt quá trình giải quyết vụ án có nội dung như sau:

Bà và ông H có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện T, tỉnh A ngày 28/11/2012. Thời gian đầu vợ chồng bà chung sống hạnh phúc, sau phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm trong cuộc sống. Ngày 01/3/2019, bà đã về nhà cha mẹ ruột sinh sống từ làm cuộc sống hôn nhân ngày càng rạn nứt và không thể hàn gắn. Từ đó đến nay, ông H không có động thái hàn gắn hôn nhân. Bà xác định tình cảm vợ chồng không còn và không thể hàn gắn được nên yêu cầu được ly hôn với ông H.

Về con chung: Bà và ông H có 02 con chung tên Nguyễn Ngọc HG sinh ngày 06/4/2015 đang học lớp tại Trường tiểu học H và Nguyễn Phúc H sinh ngày 06/11/2017 đang học tại Trường mẫu giáo H. Khi ly hôn, bà yêu cầu được nuôi dưỡng cả 02 con chung, yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi mỗi con chung 1.500.000 đồng/ 1 người /1 tháng.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Bị đơn ông Nguyễn Trọng H trong suốt quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã triệu tập hợp lệ nhiều lần, ông H vẫn vắng mặt, không làm bản tự khai, không tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, không cung cấp bất kỳ tài liệu, chứng cứ nào và không có văn bản ý kiến phản hồi hay yêu cầu gì đối với việc khởi kiện của bà H, cũng như vắng mặt tại phiên tòa sơ thẩm.

Tòa án tiến hành thụ lý vụ án, hòa giải không được do bị đơn vắng mặt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Thủ tục tố tụng:

Về thẩm quyền: Bà Bà Lương Thị Thu H nộp đơn khởi kiện yêu cầu được ly hôn với ông Nguyễn Trọng H. Căn cứ nơi cư trú của bị đơn, nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Thủ Thừa theo quy định tại Điều 28 và Điều 35, 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

Về sự vắng mặt của đương sự: Bà Bà Lương Thị Thu H có đơn xin xét xử vắng mặt. Ông Nguyễn Trọng H vắng mặt tại phiên tòa sơ thẩm dù đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ 2 để xét xử nên Tòa án giải quyết vắng mặt các đương sự theo quy định tại Điều 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Nội dung:

Ông Nguyễn Trọng H vắng mặt suốt quá trình giải quyết vụ án, không có ý kiến gì đối với yêu cầu khởi kiện của bà H. Căn cứ khoản 2 Điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự “Một bên đương sự thừa nhận hoặc không phản đối những tình tiết, sự kiện, tài liệu, văn bản, kết luận của cơ quan chuyên môn mà bên đương sự kia đưa ra thì bên đương sự đó không phải chứng minh”.

Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ vụ án để xem xét yêu cầu khởi kiện của bà H.

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Bà H và ông H được pháp luật công nhận là vợ chồng. Nay bà H kiên quyết xin ly hôn với ông H vì không thể tiếp tục cuộc sống hôn nhân này. Bà và ông H đã ly thân từ năm 2019 cho đến nay. Ông H không đưa ra được bất kỳ giải pháp nào để hàn gắn và vắng mặt suốt quá trình giải quyết vụ án thể hiện ông không có thiện chí hàn gắn mối quan hệ hôn nhân này. Do đó, Hội đồng xét xử xác định mâu thuẫn trong hôn nhân giữa 2 bên là trầm trọng. Bà H và ông H không còn quan tâm, chăm sóc lẫn nhau, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu xin ly hôn của bà H là có cơ sở chấp nhận theo quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[2.2] Về nuôi con chung:

Bà H xác định bà và ông H có 02 con chung gồm: Nguyễn Ngọc HG sinh ngày 06/4/2015 và Nguyễn Phúc H sinh ngày 06/11/2017. Khi ly hôn, bà H yêu cầu được nuôi dưỡng cả 02 con chung, yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con chung 1.500.000 đồng/1 người/1 tháng.

Xét thấy, hai cháu HG và Phúc H đang ở chung với bà H, có cuộc sống ổn định và nguyện vọng sống chung với bà H. Ông H cũng không có phản đối hay ý kiến gì về việc nuôi con chung. Do đó, nhằm không làm thay đổi hoàn cảnh sống ảnh hưởng đến sự phát triển tâm lý trẻ nên chấp nhận yêu cầu của bà H, giao 02 con chung tên HG và Phúc H cho bà H trực tiếp nuôi dưỡng.

Về cấp dưỡng nuôi con: Hội đồng xét xử nhận thấy, ông H là người không trực tiếp nuôi dưỡng con chung thì phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con theo quy định tại Điều 82 Luật hôn nhân và gia đình. Bà H yêu cầu ông H phải cấp dưỡng nuôi con 1.500.000 đồng/1 người/1 tháng. Xét thấy theo quy định pháp luật thì mức cấp dưỡng nuôi con không được vượt quá 1/2 mức lương cơ bản (mức lương hiện nay là 1.490.000 đồng). Bà H cho rằng ông H có thu nhập cao nhưng không cung cấp được tài liệu chứng minh thu nhập của ông là bao nhiêu. Ông H vắng mặt suốt quá trình giải quyết vụ án nên không có căn cứ xác định về thu nhập cũng như nghề nghiệp của ông H. Do đó, yêu cầu về cấp dưỡng nuôi con của bà H được chấp nhận 1 phần. Buộc ông H phải cấp dưỡng nuôi con chung 750.000 đồng/1 người/1 tháng. Thời gian cấp dưỡng nuôi con kể từ tháng 8/2022 cho đến khi từng con chung đủ 18 tuổi.

Mặc dù không trực tiếp nuôi dưỡng con chung, nhưng ông H được quyền đến thăm, chăm sóc con chung không ai được ngăn cản. Vì lợi ích của con chung thì cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình có quyền làm đơn yêu cầu xin thay đổi người trực tiếp nuôi con; mức cấp dưỡng nuôi con.

[2.3] Về nợ chung: Bà H xác định không có nợ chung. Ông H không có ý kiến phản hồi về nợ và cho đến khi xét xử sơ thẩm, không có ai khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết về việc nợ chung của vợ chồng bà H và ông H nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết trong vụ án này, nếu sau này có tranh chấp sẽ được giải quyết bằng vụ án khác theo quy định pháp luật.

[2.4] Về tài sản chung: Bà H xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Ông H không có ý kiến phản hồi về phần tài sản chung do đó Hội đồng xét xử không xem xét, nếu sau này có tranh chấp sẽ được giải quyết bằng vụ án khác theo quy định pháp luật.

Từ các phân tích trên, yêu cầu khởi kiện của bà H là có căn cứ chấp nhận một phần.

[3] Về án phí: Căn cứ Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, bà Hphải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn. Ông H phải chịu 300.000 đồng án phí cấp dưỡng nuôi con.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 28, 35, 39, 147, 227, 228, 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;

Áp dụng Điều 56, 81, 82, 83, 84, 117 của Luật hôn nhân và gia đình;

Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Lương Thị Thu H về việc “Ly hôn” đối với ông Nguyễn Trọng H.

1/ Về quan hệ hôn nhân: Bà Lương Thị Thu H được ly hôn với ông Nguyễn Trọng H.

2/ Về con chung: Bà Lương Thị Thu H và ông Nguyễn Trọng H có 02 con chung.

Giao 02 con chung tên Nguyễn Ngọc HG sinh ngày 06/4/2015 và Nguyễn Phúc H sinh ngày 06/11/2017cho bà Lương Thị Thu H trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc.

Về cấp dưỡng nuôi con: Ông Nguyễn Trọng H phải cấp dưỡng nuôi con 750.000 đồng/1 người/1 tháng. Thời gian cấp dưỡng nuôi con kể từ tháng 8/2022 cho đến khi từng con chung đủ 18 tuổi.

Mặc dù không trực tiếp nuôi dưỡng con chung, nhưng ông Nguyễn Trọng H được quyền đến thăm, chăm sóc con chung không ai được ngăn cản. Vì lợi ích của con chung thì cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình có quyền làm đơn yêu cầu xin thay đổi người trực tiếp nuôi con; mức cấp dưỡng nuôi con.

3/ Về án phí:

Bà Lương Thị Thu H phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn, được khấu trừ 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0002445, ngày 13/5/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thủ Thừa, tỉnh Long An. Bà Bà Lương Thị Thu H đã nộp đủ.

Ông Nguyễn Trọng H phải chịu 300.000 đồng án phí cấp dưỡng nuôi con.

4/ Án xử sơ thẩm, bà Lương Thị Thu H, ông Nguyễn Trọng H được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hợp lệ hoặc từ ngày niêm yết bản án.

5/ Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 của Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

112
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 70/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:70/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thủ Thừa - Long An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;