Bán án về tranh chấp ly hôn số 65/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LONG XUYÊN, TỈNH AN GIANG

BÁN ÁN 65/2021/HNGĐ-ST NGÀY 15/03/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 15 tháng 3 năm 2021, tại Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 607/2020/TLST-HNGĐ ngày 07 tháng 10 năm 2020 về “Xin ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 36/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 18 tháng 01 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 92/2021/QĐST-HNGĐ ngày 19 tháng 02 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị N, sinh năm 1996. Địa chỉ: Tổ 7, Ấp Mỹ T, xã Mỹ Hòa H, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang – Vắng mặt (chị N có đơn xin xét xử vắng mặt ngày 19/01/2021).

- Bị đơn: Anh Trương Văn T, sinh năm 1996. Địa chỉ: Ấp Mỹ Th, xã Mỹ Hòa H, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang – Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 07/9/2020 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn chị Nguyễn Thị N trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị N và anh T do quen biết và tự nguyện tiến đến hôn nhân có tổ chức lễ cưới vào năm 2018 và đăng ký kết hôn tại UBND xã Mỹ Hòa H, thành phố Long Xuyên ngày 11/3/2019. Đây là hôn nhân lần thứ hai của chị N, là hôn nhân lần thứ nhất của Anh T. Sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc đến cuối năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn, do bất đồng quan điểm sống, vợ chồng thường hay cự cãi, gia đình không hạnh phúc. Mặc dù cả hai đã nhiều lần tìm cách hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng không được nên mâu thuẫn ngày càng nghiêm trọng hơn và vợ chồng đã sống ly thân từ đó cho đến nay. Nhận thấy mục đích hôn nhân không đạt nên chị N yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với anh T.

Về con chung: Có 01 con chung tên Trương Thị Kim C, sinh ngày 17/03/2019. Hiện đang sống với anh T, khi ly hôn chị đồng ý để anh T được nuôi con và chị không phải cấp dưỡng nuôi con.

Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn anh Trương Văn T vắng mặt trong suốt quá trình tố tụng và tại phiên tòa, không gửi văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu của nguyên đơn.

Tại phiên tòa:

Nguyên đơn chị Nguyễn Thị N có đơn xin xét xử vắng mặt. Anh Trương Văn T vắng mặt lần thứ hai.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên Tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng đét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Tranh chấp giữa chị N với anh T là tranh chấp về hôn nhân và gia đình theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Anh Trương Văn T có đăng ký hộ khẩu thường trú tại xã Mỹ Hòa H, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang nên chị N khởi kiện xin ly hôn với anh T thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Nguyên đơn chị Nguyễn Thị N có đơn đề nghị xét xử vắng mặt với lý do bận công việc không thể có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án được. Đề nghị này của chị N là phù hợp với khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự nên được chấp nhận. Đối với anh Trương Văn T mặc dù đã được tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng anh T vẫn vắng mặt không có lý do. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 2 Điều 227; khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[2] Về hôn nhân: Hôn nhân giữa chị N với anh T là hôn nhân tự nguyện, anh chị có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Mỹ Hòa H, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang ngày 11/3/2019 là phù hợp Điều 8, Điều 9 của Luật Hôn nhân và gia đình 2014 đây là hôn nhân hợp pháp nên được công nhận. Trong quá trình chung sống, chị N cho rằng vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn, thường hay cự cãi, bất đồng quan điểm sống, tính tình không phù hợp nhau và vợ chồng đã sống ly thân, nhận thấy tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn nên chị N yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với anh T.

Sau khi xem xét ý kiến của nguyên đơn, Hội đồng xét xử nhận thấy trong cuộc sống vợ chồng chị N, anh T có những mâu thuẫn không thể hàn gắn được, thể hiện qua việc vợ chồng đã sống ly thân, trong thời gian này cả hai chỉ lo cho cuộc sống cá nhân không tạo điều kiện cho nhau để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt các văn bản tố tụng cho anh T biết về việc chị N xin ly hôn với anh nhưng anh T không tham dự phiên tòa cũng như trình bày ý kiến của mình đối với yêu cầu ly hôn của chị N, điều này thể chứng tỏ anh T không có ý muốn hàn gắn tình cảm vợ chồng. Do đó, việc chị N xin ly hôn với anh T là phù hợp với Điều 51, Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 nên được chấp nhận.

[3] Về con chung: Có 01 con chung tên Trương Thị Kim C, sinh ngày 17/03/2019. Hiện đang sống với anh T, khi ly hôn chị đồng ý để anh T được nuôi con và chị không phải cấp dưỡng nuôi con. Hiện nay cháu C đang sống chung với anh T và anh T cũng không có ý kiến đối với ý kiến này của chị N nên việc chị N tự nguyện để anh T tiếp tục nuôi dưỡng con chung là phù hợp với khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên được chấp nhận. Chị N là người không trực tiếp nuôi con chung nhưng theo quy định tại khoản 3 Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì chị N có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở. Anh T và các thành viên gia đình anh T không được cản trở chị N trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Việc nuôi con không cố định.

Vì lợi ích của con, khi có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức theo quy định của pháp luật, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc hạn chế quyền của cha mẹ đối với con chưa thành niên.

[4] Về cấp dưỡng nuôi con: Đối với việc chị N xin không cấp dưỡng nuôi con, do hiện nay anh T đang nuôi con. Trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho anh T nhưng anh T không tham dự phiên tòa và cũng không có ý kiến đối với yêu cầu này của chị N xem như anh từ bỏ quyền của mình, do đó Tòa án chấp nhận yêu cầu này của chị N.

[5] Về tài sản chung và nợ chung: Chị N trình bày không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết, do đó Hội đồng xét xử không xem xét đến.

[6] Về án phí: Chị N phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm theo quy định pháp luật.

[7] Về quyền kháng cáo: Chị N và anh T được quyền kháng cáo trong theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 7 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; Điều 227, khoản 1 Điều 228; Điều 235; Điều 266; khoản 1 Điều 273; khoản 1 Điều 280 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ Điều 9; khoản 1 Điều 53; Điều 56; Điều 58; Điều 81; Điều 82; Điều 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình 2014;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

[1] Về quan hệ hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Nguyễn Thị N và anh Trương Văn T.

[2] Về con chung: Có 01 con chung tên Trương Thị Kim C, sinh ngày 17/03/2019.

Giao cháu Trương Thị Kim C, sinh ngày 17/3/2019 cho anh Trương Văn T trực tiếp nuôi dưỡng. Chị N không trực tiếp nuôi con chung nhưng chị N có quyền được thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung, không ai được ngăn cản chị N thực hiện quyền này. Việc nuôi con không cố định.

Vì lợi ích của con, khi có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức theo quy định của pháp luật, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc hạn chế quyền của cha mẹ đối với con chưa thành niên.

[3] Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Nguyễn Thị N không phải cấp dưỡng nuôi con, do anh T không có yêu cầu.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Chưa giải quyết.

[5] Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị N phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí mà chị N đã nộp theo biên lai thu số 0005619 ngày 07/10/2020 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Long Xuyên. Chị N đã nộp xong án phí.

[6] Về quyền kháng cáo: Chị Nguyễn Thị N được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng anh Trương Văn T được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc Tòa án niêm yết bản án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

(Đã giải thích điều 26 Luật thi hành án dân sự)

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

197
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bán án về tranh chấp ly hôn số 65/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:65/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Long Xuyên - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;