Bản án về tranh chấp ly hôn số 64/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỚI BÌNH, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 64/2022/HNGĐ-ST NGÀY 30/05/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Trong ngày 30 tháng 5 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 93/2022/TLST-HNGĐ ngày 11 tháng 3 năm 2022, về việc “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 75/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 26 tháng 4 năm 2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Trần Bích T, sinh năm 2000 (xin vắng mặt) Địa chỉ: Ấp A, xã TLB, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau.

2. Bị đơn: Ông Trương Văn H, sinh năm 1994 (vắng mặt) Địa chỉ: Ấp A, xã TLB, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau

NỘI DUNG VỤ ÁN

*Trình bày của bà Trần Bích T tại đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án:

Hôn nhân: Bà Trần Bích T và ông Trương Văn H tự nguyện chung sống với nhau có đăng ký kết hôn tại UBND xã TLB, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau vào ngày 24/7/2019. Quá trình chung sống vợ chồng xảy ra mâu thuẫn do ông H không chăm lo làm ăn, bà T và ông H đã ly thân với nhau từ năm 2020 cho đến nay nên bà T yêu cầu được ly hôn với ông H.

Con chung: Bà T và ông H có 02 con chung tên Trương Thị Ngọc A sinh ngày 30/11/2017 (giới tính nữ) và Trương Hòa B sinh ngày 18/11/2019 (giới tính nam), các con chung hiện do ông H đang nuôi dạy. Khi ly hôn, bà T tự nguyện giao con cho ông H tiếp tục nuôi dạy, bà không cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Ngày cưới cha mẹ chồng cho vợ chồng 01 sợi dây chuyền 05 chỉ vàng 24K; 01 tấm lắc 05 chỉ vàng 24K. Cha mẹ ruột cho vợ chồng 02 chiếc khâu trọng lượng 10 chỉ vàng 24K, cụ thể mỗi chiếc 05 chỉ vàng 24K. Tổng tài sản chung của vợ chồng là 20 chỉ vàng 24K, hiện cha mẹ chồng là ông Trương Văn P và bà Phan Thị N mượn đến nay chưa trả. Khi ly hôn, bà T xác định để tự thỏa thuận phận chia, không đặt ra yêu xem xét.

Nợ chung: Bà T xác định vợ chồng không có nợ chung nên không đặt ra yêu cầu xem xét.

* Trình bày của ông Trương Văn H tại biên bản hòa giải ngày 05/4/2022:

Ông H xác định bà T trình bày chính xác về ngày tháng năm chung sống, đăng ký kết hôn, con chung. Nay ông có ý kiến:

Hôn nhân: Bà T và ông H ly thân vào ngày 05/5/2019, nguyên nhân mâu thuẫn do bất đồng quan điểm với nhau trong cuộc sống.

Con chung: Vợ chồng có 02 con chung tên Trương Thị Ngọc A sinh ngày 30/11/2017 (giới tính nữ) và Trương Hòa B, sinh ngày 18/11/2019 (giới tính nam), các con chung hiện ông H đang nuôi dạy, ông H thống nhất tiếp tục nuôi dạy các con chung không yêu cầu bà T cấp dưỡng nuôi con.

Tài sản chung: Vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu phân chia.

Nợ chung: Ông H xác định không có nên không đặt ra yêu cầu xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện các chứng cứ, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng và quan hệ pháp luật tranh chấp: Bà Trần Bích T khởi kiện yêu cầu ly hôn với bị đơn là ông Trương Văn H. Đây là tranh chấp hôn nhân và gia đình về việc ly hôn; Ông H có nơi cư trú tại ấp A, xã TLB, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau. Vì vậy, yêu cầu khởi kiện của bà T thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Quá trình thụ lý giải quyết vụ án, Tòa án Tòa án triệu tập xét xử hợp lệ lần thứ hai nhưng ông Trương Văn H vắng mặt không có lý do, bà Trần Bích T xin vắng mặt tại phiên tòa. Do đó, Tòa án tiến hành xét xử vụ án vắng mặt bà T, ông H theo quy định tại khoản 1, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án:

[3] Về hôn nhân: Bà Trần Bích T và ông Trương Văn H tự nguyện chung sống với nhau có đăng ký kết hôn tại UBND xã TLB, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau vào ngày 24/7/2019. Quá trình chung sống vợ chồng xảy ra mâu thuẫn do ông H không chăm lo làm ăn, bà T và ông H đã ly thân với nhau từ năm 2020 cho đến nay nên bà T yêu cầu được ly hôn với ông H. Xét thấy, quan hệ hôn nhân giữa bà T và ông H đã tuân thủ về điều kiện đăng ký kết hôn tại Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền theo quy định tại Điều 8, 9 của Luật hôn nhân và gia đình nên được pháp luật công nhận là vợ chồng. Thời gian chung sống, bà T xác định vợ chồng bất đồng quan điểm với nhau trong cuộc sống, mâu thuẫn vợ chồng đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân giữa bà T và ông H không đạt được. Trong quá trình thụ lý giải quyết vụ án, Tòa án có tiến hành hòa giải để bà T và ông H có điều kiện gặp nhau thỏa thuận đoàn tụ gia đình nhưng không có kết quả, bà T cương quyết ly hôn, ông H yêu cầu Tòa án hòa giải đoàn tụ, ông H vắng mặt tại các lần triệu tập tiếp theo của Tòa án, điều này cho thấy vợ chồng ông bà đã không còn tình cảm với nhau, không thể tiếp tục xây dựng cuộc sống chung. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận cho bà T và ông H được ly hôn là phù hợp.

[4] Về con chung: Bà T và ông H có 02 con chung tên Trương Thị Ngọc A, sinh ngày 30/11/2017 (giới tính nữ) và Trương Hòa B, sinh ngày 18/11/2019 (giới tính nam), các con chung hiện đang sống chung với ông H, bà T tự nguyện giao con cho ông H tiếp tục nuôi dạy, bà không cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy, tại biên bản hòa giải ngày 05/4/2022, ông H thống nhất tiếp tục nuôi dạy các con chung, không yêu cầu bà T cấp dưỡng nuôi con nên giao các con chung cho ông H nuôi dạy là phù hợp.

[5] Tài sản chung: Ngày cưới cha mẹ ông H cho vợ chồng 01 sợi dây chuyền 05 chỉ vàng 24K; 01 tấm lắc 05 chỉ vàng 24K. Cha mẹ ruột cho vợ chồng 02 chiếc khâu trọng lượng 10 chỉ vàng 24K, cụ thể mỗi chiếc 05 chỉ vàng 24K. Tổng tài sản chung của vợ chồng là 20 chỉ vàng 24K, hiện cha mẹ chồng mượn đến nay chưa trả, nay bà T xác định tài sản chung vợ chồng tự thỏa thuận, bà T không đặt ra yêu cầu phân chia tài sản chung nên không xem xét là phù hợp.

[6] Về nợ chung: Bà T, ông H xác định vợ chồng không có nợ chung, tại đơn xin xác nhận đề ngày 01/3/2022 xác định không có ai thưa kiện về nợ đối với ông bà.

Quá trình giải quyết vụ án không ai đặt ra yêu cầu xem xét về nợ chung của vợ chồng nên không xem xét.

[7] Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Bà T phải chịu án phí theo quy định tại Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản1, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 56, 81, 82, 83 của luật Hôn nhân và Gia đình; Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Xét xử vắng mặt ông Trương Văn H.

2. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trần Bích T về việc ly hôn đối với ông Trương Văn H.

2.1. Về hôn nhân: Bà Trần Bích T và ông Trương Văn H được ly hôn.

2.2. Về con chung: Giao các cháu Trương Thị Ngọc A, sinh ngày 30/11/2017 (giới tính nữ) và Trương Hòa B, sinh ngày 18/11/2019 (giới tính nam) cho ông H tiếp tục nuôi dạy. Bà T và ông H không đặt ra yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét. Bà T không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm con mà không ai được cản trở.

2.3. Tài sản chung: Bà T và ông H tự thỏa thuận phân chia, không đặt ra yêu cầu xem xét.

Nợ chung: Không có.

3. Về án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Bà T phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng). Vào ngày 10 tháng 3 năm 2022, bà T có dự nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số 0014816 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau nay được chuyển thu án phí.

4. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

5. Về quyền kháng cáo, kháng nghị: Báo cho đương sự biết có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết công khai bản án. Viện kiểm sát có quyền kháng nghị theo luật định. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

246
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 64/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:64/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thới Bình - Cà Mau
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;